Tiểu luận Chuỗi cung ứng Logistics

0
4707
Tiểu luận Chuỗi cung ứng Logistics
QUẢNG CÁO
Vài Phút Quảng Cáo Sản Phẩm


Tiểu luận Chuỗi cung ứng Logistics

Mọi ý kiến đóng góp xin gửi vào hòm thư: [email protected]

Kéo xuống để Tải ngay đề cương bản PDF đầy đủ: Sau “mục lục” và “bản xem trước”

(Nếu là đề cương nhiều công thức nên mọi người nên tải về để xem tránh mất công thức)

Đề cương liên quan:Tiểu luận Dịch vụ Logistics


Tải ngay đề cương bản PDF tại đây: Tiểu luận Chuỗi cung ứng Logistics

Quảng Cáo

            BÀI LUẬN CHUỖI CUNG ỨNG LOGISTICS

            ĐỀ TÀI: BAO BÌ

A. Phần mở đầu

I.Tổng quan về chuỗi cung ứng logistics
Logistics là nghệ thuật và khoa học của quản lý và điều chỉnh luồng di chuyển của hàng hoá, năng lượng, thông tin và những luồng dịch vụ khác như sản phẩm, dịch vụ và con người, từ nguồn lực sản xuất cho đến thi trường. Thật là khó khi hoàn thành việc tiếp thị hay sản xuất mà không có sự hỗ trợ của logistics. Nó thể hiện sự hợp nhất của thông tin liên lạc, vận tải, tồn kho, lưu trữ, giao nhận nguyên vât liệu, bao bì đóng gói. Trách nhiệm vận hành của hoạt động logistics là việc tái định vị(theo mục tiêu địa lý) của nguyên vật liệu thô, của công việc trong toàn quá trình, và tồn kho theo yêu cầu chi phí tối thiểu có thể.
Vậy logistics là gì?
Từ những tiên đề trên ta có thể hiểu định nghĩa của logistics đơn giản như là thời gian liên quan đến việc định vị các nguồn lực. Vì vậy, logistics nhìn chung được coi như một nhánh của quá trình tạo ra một hệ thống liên quan đến nguồn lực con người hơn là hệ thống về máy móc.
Điều này rất quan trọng, nó chỉ rõ nguồn lực tập trung là con người với vai trò vừa là đối tượng, vừa là công cụ tác động, vừa là chủ thể của quá trình.
Vậy còn cơ sở của logistics thì sao? Từ khái niệm trên logistics có thể được hiểu như là việc có được số lượng cần thiết ở đúng thời điểm và với chi phí phù hợp. Nó là nghệ thuật, là một quá trình khoa học. Nó phối hợp tất cả các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, quản lý vòng đời dự án, chuỗi cung cấp và hiệu quả.

Logistics có khái niệm bắt nguồn từ nhu cầu quân sự trong việc cung cấp cho chính họ trong quá trình di chuyển của các đoàn quâ từ căn cứ ra tiền tuyến.
Trong thời kì Hi Lạp cổ đại, đế chế Roman và Byzantine, đã có những sỹ quan với mác “logistikas” là người chị trách nhiệm đến các vấn đề về tài chính cũng như cung cấp phân phối.
Còn theo định nghĩa của Oxford thì logistics được hiểu là một nhánh của khoa học quân sự liên quan đến việc tiến hành, duy trì và vận chuyển phương tiện thiết bị và nhân sự .
Còn logistics có khái niệm liên quan đến kinh doanh bắt nguồn từ những năm 1950. Điều này chủ yếu là do sự gia tăng trong việc cung cấp, vận chuyển trong một thế giới toàn cầu hoá đòi hỏi phải có những nhà chuyên gia trong lĩnh vực này.

II.Giới thiệu sơ lược về bao bì trong chuỗi cung ứng logistics

Bao bì hàng hoá đóng vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất, phân phối và tiếp thị sản phẩm ra thị trường. Ngày nay, bao bì không để trình bày, mô tả, quảng cáo cho sản phẩm hay đơn thuần là vật bảo quản, chứa đựng sản phẩm mà bao bì còn đảm nhận vai trò như công một cụ tiếp thị cho sản phẩm, là hình ảnh tượng trưng cho sản phẩm và có vai trò quan trọng trong việc quyết định mua hàng của khách hàng tiềm năng
1. Khái niệm và chức năng của bao bì
a. khái niệm:
Bao bì là phương tiện đi theo hàng để bảo quản, bảo vệ, vận chuyển và giới thiệu hàng hoá từ sản xuất đến tiêu dùng.
 b. Chức năng:
Có 2 chức năng chính:
– Chức năng maketing (bao bì tiêu dùng / bao bì bên trong ) : có vai trò chính là thúc đẩy quá trình bán hàng, đảm bảo tryuền tin maketing cho khách hàng về hàng hoá và về doanh nghiệp.
Bao bì là hình ảnh riêng về sản phẩm giúp cho người tiêu dùng dễ nhận biết, lựa chọn trong vô số loại hàng hoá có giá trị sử dụng giống nhau hoặc gần nhau. Thông qua các hình thức trang trí trên bao bì, người ta hướng dẫn người mua sử dụng, người bảo quản về cách thức bảo vệ sản phẩm khỏi hư hỏng, cách tháo mở bao bì, và lắp đặt sản phẩm.
– Chức năng logistics (bao bì công nghiệp/bao bì bên ngoài):bao bì gắn liền với toàn bộ quá trình logistics trong kênh phân phối và trong hệ thống logistics doanh nghiệp.Bao bì hổ trợ cho quá trình mua, bán, vận chuyển và dư trữ, bảo quản sản phẩm, nguyên liệu, hàng hoá.
Bao bì xuất hiện với tư cách là đồ vật để chứa đựng, bọc giữ hàng hoá đóng gói bên trong chống hư hỏng mất mát.Vì vậy, chức năng bảo quản, bảo vệ hàng hoá của bao bì là chức năng quan trọng đầu tiên vẫn giữ nguyên ý nghĩa à giá trị của nó.

  1. Mục đích của bao bì

    Nhiều mặt hàng cần các bao bì bảo vệ, đặc biệt khi di chuyển, đặc biệt là những hàng  ỏng manh như đồ điện tử hoặc đồ sứ. Đôi khi bao bì có thể bảo vệ khỏi các tác động của môi trường như nắng hoặc mưa, đôi khi cần phải tách các hàng hoá không được di chuyển chung như đường và dầu, hoặc đôi khi phải bảo quản cho sạch sẽ như thực phẩm và dược phẩm.

 

B. Nội dung:

I.Các gói hàng chuẩn:
         Việc tập trung hàng hoá vào các kiện hàng chuẩn được gọi là tập hợp hàng thành đơn vị vận chuyển.Rõ ràng là dễ dàng hơn trong việc di chuy ển các đơn vị vận chuyển so với việc di chuyển các kiện hàng có qui mô và kích cỡ khác nhau. Nếu một công ty luôn  sử dụng các đơn vị vận chuyển chuẩn, thì nó có thể thiết đạt tất cả các thiết  bị chuyển hàng tham gia vào việc di chuy ển h àng ho á m ột c ách c ó hi ệu qu ả. Đó là lí do vì sao mà việc di chuyển hàng trong siêu thị với hàng hoá các kích cỡ khác nhau nhưng được đặt trong các xe đẩy tay chuẩn được di chuyển chỉ bằng xe tải.Việc xếp tất cả hàng hoá vào trong các container nên công ty chỉ di chuyển các container thay vì di chuyển các hàng hoá riêng lẻ lích kích.
Một lợi ích khác của kiện hàng chuẩn là chúng có thể tăng tầng suất kho hàng.
Do vậy một trong những lợi ích rõ ràng của việc bao gói là nó làm cho việc di chuyển hàng dễ dàng hơn. Đó là lí do vì sao khi đi du lịch bạn lại xếp quần áo vào va li thay vì mang chung riêng lẻ. Nhưng còn có những lí do khác liên quan đến việc sử dụng các bao gói đúng kích cỡ
     II.Các yêu cầu đối với bao bì:
Tuỳ thuộc vào tính chất của hàng hoá  và quá trình vận động của chúng mà có rất nhiều loại bao bì khác nhau. Nhưng để thực hiện chức năng logistics của mình, bao bì hàng hoá phải đảm bảo những yêu cầu sau:
+ Gĩư gìn nguyên vẹn về số lượng và chất lượng sản phẩm
+ Tạo điều kiện thuận lợi cho việc xếp dỡ, vận chuyển, bảo quản, tiêu dùng sản phẩm, góp phần nâng cao năng suất lao động
+ Tạo điều kiện để sử dụng triệt để diện tích và dung tích nhà kho
+ Tạo điều kiện để đảm bảo an toàn lao động, và bảo vệ sức khoẻ cho nhân viên làm công tác giao nhận, vận chuyển, xếp dỡ, bảo quản.
+ Đảm bảo chi phi hợp lí.
          1. Yêu cầu đối với các nhà xuất khẩu về bao bì:

Đối với hàng hoá xuất khẩu, chức năng vận chuyển, bảo quản của bao bì rất quan trọng. Đặc biệt nếu hàng hoá trải qua một chặng đường khá dài để đến tay người tiêu dùng cuối cùngểơ thị trường mục tiêu. Do vậy, các nhà xuất khẩu cần lưu ý các tính năng sau đây của bao bì trong quá trình vận chuyển, bảo quản:

* Phù hợp với loại hình vận chuyển( tàu biể, máy bay, xe tải, hàng rời, hàng container…)
* Có kích thước phù hợp để dễ dàng trong việc lưu kho bãi, trên những pallet hoặc trong container
* Đáp ứng được yêu cầu vè độ bền, dẻo dai để chịu được sự va chạm, kéo, đẩy trong quá trình lưu trữ, bốc xếp và vận chuyển đường biển, đường hàng không cũng như đường bộ
* Phù hợp với việc thay đổi khí hậu, thời tiết ở các châu lục khác nhau
* Dảm bảo tính năng bảo vệ sản phẩm của bao bì để không làm sản phẩm  bị biến mùi, ẩm mốc, hư hỏng.
* Thể hiện rõ những yêu cầu cần lưu ý trong quá trình xếp hàng, vận chuyển, bốc xếp,…trên bao bì.

Nhà xuất khẩu cần kiểm tra bao bì trước khi tiến hành đóng gói. Tuỳ từng trường hợp cụ thể, nhà xuất khẩu có thể kiểm tra các tính năng sau đây:

– Độ bền cơ học
– Độ bền kéo dứt
– Độ trong suốt
– Độ bền va đập
– Tính năng cản hơi nước
– Độ bền với nước
– Tính ngăn cản oxy
– Độ chịu nhiệt
– Tính giữ mùi
– Độ chịu ánh sáng
– Tính an toàn cho trẻ em và người già
– Tính tiện dùng

Đặt biệt các nhà xuất khẩu cần biết rõ các yêu cầu pháp lý (mang tính bắt buộc) và yêu cầu của người mua hàng(phát sinh theo nhu cầu thực tế tại thị trường mục tiêu) liên quan đến bao bì. Các yêu cầu này thường là yêu cầu chung về bao bì hoặc cho từng sản phẩm, nghành hàng cụ thể. Một điều quan trọng nữa là, các doanh nghiệp thường có xu hướng sử dụng chung một loại bao bì đang lưu hành trên thị trường nội địa để xuất khẩu. Nếu không xem xét cẩn trọng, việc này có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng như: bị khách hàng từ chối lô hàng,  không trả hoặc chậm trả tiền hàng vì khách hàng hoặc chính phủ của nước nhập khẩu bắt buộc nhà xuất khẩu hàng phải khắc phục lỗi dã gây ra, bị đóng phạt, quan trọng hơn là việc này đã làm xấu đi hình ảnh đối với khách hàng.
              2. Các loại chất liệu được sử dụng làm bao bì và cách ghi kí hiệu trên bao bì gỗ:

* Hiện nay trên thị trường các doanh nghiệp thường lựa chọn 5 loại chất liệu sau để sử dụng làm bao bì:
1.Thuỷ tinh: dễ lau chùi, tái sử dụng hoặc tái chế được nhưng dở vỡ, đắt tiền và khó làm.

  1. Nhựa: nhẹ, rẻ, và có thể tái chế nhưng có thể đắt tiền và khó làm hoặc khó sử dụng lại
    3. Thùng giấy: rẻ, có thể tái chế nhưng ít chắc chắn và không bền
    4. Gỗ: chắc chắn, dễ sử dụng và có thể tái sử dụng nhưng nặng, chiếm diện tích và khó chùi rửa.
    5. Kim loại: chắc và bền, nhưng nặng và đắt tiền

     

    Việc lựa chọn các loại vật liệu này phù thuộc vào loại sản phẩm, vào quá trình di chuyển và các điều kiện bảo quản kèm theo. Đây có thể là một quyết định khó, trong việc cân đối giữa nhiều yếu tố. Chẳng hạn, bạn nên sử dụng loại chai nhựa cho một loai sản phẩm lỏng nhưng rõ ràng điều này sẽ không tạo hình ảnh tốt nếu bạn sử dụng cho các loại rượu, một sản phẩm mà thường chứa trong các loại chai thuỷ tinh.
    * Cách ghi kí hiệu trên bao bì gỗ:
    –  XX là mã nước 2 chữ cái theo qui ước của tổ chức ISO
    –  000 là mã số riêng do tổ chức bảo vệ thực vật quốc gia cấp cho cơ sở xử lý gỗ
    – YY hoặc HT hoặc MB
    – Trường hợp được miễn trừ: Các loại bao bì gỗ được miễn thực hiện quy định này : hoàn toàn là gỗ chế tạo( ví dụ: ván ép, gỗ dán), thùng rượu vang và whisky và những miếng gỗ mỏng(dày từ 6mm trở xuống). Bao bì bằng gỗ đến từ Canada được phép vào Hoa Kỳ không cần ký hiệu IPPC, nhưng sẽ được kiểm dịch sâu bọ.
              3. Những quy định liên quan đến bao bì:

    Thông thường  có những quy định liên quan đến bao bì như sau:
    + Quy định chung về bao bì thị trường mục tiêu, bao gồm quy định của khối thị trường chung và từng quốc gia cụ thể
    + Quy định về bao bì cho từng nghành, loại sản phẩm cụ thể( thực phẩm, dược phẩm, hoá chất,…)
    + Quy định về chất liệu sản xuất bao bì xuất khẩu:bao bì được sản xuất từ chất liệu gì? Giấy, nhựa, kim loại, gỗ? Có quy định cho riêng từng loại chất liệu bao bì hay không? Chất liệu này có được chấp nhận tại thị trường mục tiêu hay không? Có chất liệu nào bị hạn chế sử dụng hay không?

Ví dụ như PVC, nhựa …
+ Các quy định về hình ảnh, màu sắc, kiểu dáng, trọng lượng của bao bì: hình ảnh có phản ánh đúng với sản phẩm chưa đựng bên trong bao bì không? Hình ảnh có mang tính phản bác tín ngưỡng hoặc văn hoá của một bộ phận người tiêu dùng nào đó trên thị trường mục tiêu không?…
+ Các quy định liên quan đến việc ghi kí hiệu, nhãn mác trên sản phẩm như: ngôn ngữ sử dụng, tên sản phẩm, trọng lượng hàng hoá, thành phần/dinh dưỡng, xuất xứ,v.v….
+ Các quy định về môi trường tại thị trường mục tiêu
+  Các quy định liên quan đến việc truy nguyên nguồn gốc lô hàng khi có sự cố xảy ra …

Ở các nước đang phát triển, việc tìm hiểu các thông tin như thế này còn rất hạn chế. Nếu nhà xuất khẩu ở các nước đang phát triển chỉ xuất các mặt hàng thô hoặc sản phẩm nguyên liệu,  đóng trong các loại bao đay, bao PP 25kg hoặc 50kg thì yêu cầu về bao bì tương đối dễ dàng. Tuy nhiên, khi đề cập đến những quy định pháp lý liên quan đế các loại bao bì bằng cotton, đay hoặc bao bì vải, bẳng gỗ thì các nhà xuất khẩu thường tỏ ra lung túng vì không nắm được quy định. Tuy khách hàng có thể là nguồn thông tin rất quan trọng để nhà xuất khẩu hiểu về các quy định của thị trường mục tiêu nhưng việc lệ  thuộc thông tin thường làm nhà xuất khẩu chịu thiệt thòi trước đối tác của mình là khách hàng. Do vậy, trước khi tiến hàng xuất khẩu hàng hóa, một trong những vấn đề ưu tiên mà nhà xuất khẩu cần lưu ý là nắm rõ các quy định về ngành hàng, sản phẩm mà mình cần xuất khẩu.

            4.Liên hệ thực tế về những quy định liên quan đến bao bì trong việc xuất khẩu hàng hoá:

Theo quy định mới của Mỹ, kể từ ngày 16/9/2005 không cho phép nhập khẩu hàng bao bì bằng một số loại vật liệu đóng gói bằng gỗ, điều này đã làm cho một số doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng sang Mỹ cảm thấy hoang mang khi không biết rõ về quy định mới này.

Như vậy sau khi tìm hiểu  thông tin này các doanh nghiệp được một toà soạn giải đáp các quy  mới về bao bì đóng gói bằng gỗ của Mỹ như sau:

Theo Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ, quy định mới của Hoa Kỳ không cho phép nhập khẩu hàng có bao bì bằng gỗ (wood packaging materials – WPM) không đúng qui định sẽ có hiệu lực từ ngày 16-9-05.            Sự thay đổi này sẽ ảnh hưởng đến tất cả các lô hàng có bao bì là WPM như: kệ (pallet), thùng thưa (crate), thùng kín (box), lót (dunnage), khối (block), vật liệu chèn (skid)… nhập khẩu vào Hoa Kỳ vào hoặc sau ngày 16-9-2005.

Tất cả bao bì gỗ đóng gói hàng nhập khẩu phải được xử lý và ghi ký mã hiệu theo quy định mới này trừ những trường hợp miễn trừ. Bao bì gỗ không thực hiện đúng theo các yêu cầu trên sẽ bị tái xuất cùng với tất cả hàng hoá; không cho phép xử lý hoặc tiêu hủy. Hàng đóng gói bằng kệ (pallet) nhựa, nhưng dùng gỗ không phù hợp để chèn, lót… cũng phải tái xuất.

Bao bì gỗ không có ký mã hiệu có thể tách khỏi hàng hoá nhập khẩu nếu nhân viên kiểm dịch xác định rằng việc tách đó có thể thực hiện được mà không để phát tán sâu bọ gây hại. Tuy nhiên, một số cảng đã cho biết họ sẽ yêu cầu tái xuất toàn bộ lô hàng vi phạm đóng trong container bởi vì các phương tiện ở cảng không đủ để tránh phát tán sâu bọ, trong khi đó các lô hàng rời sẽ được xem xét từng trường hợp một. Chủ hàng phải nộp cho Cơ quan kiểm dịch phí giám sát tách hàng. Cơ quan kiểm dịch sẽ cho phép tái chế hàng nếu sâu bọ gây hại không xuất phát từ gỗ được khoanh lại bằng bao bì gỗ có ký mã hiệu IPPC.

Hiện nay, qui định hạn chế nhập khẩu hàng có bao bì bằng gỗ chỉ ảnh hưởng đến hàng hóa nhập từ Trung Quốc và Hong Kong. Quy định này đã phần nào gây khó khăn cho các nhà sản xuất Trung Quốc, vì họ phải tốn thêm chi phí nghiên cứu và đặt sản xuất các loại bao bì mới, hoặc tốn chi phí cho việc thanh trùng và ghi mã hiệu cho bao bì gỗ.

Những yêu cầu về xử lý và ghi ký mã hiệu: Do Cơ quan kiểm dịch động thực vật thuộc Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ ban hành cuối năm 2004 theo tiêu chuẩn quốc tế yêu cầu bao bì gỗ gồm:
* Phải được xử lý nhiệt hoặc hun trùng: Cụ thể, gỗ dùng làm bao bì sử dụng trong thương mại quốc tế hoặc phải được xử lý nhiệt tới nhiệt độ tối thiểu cho gỗ là 56 độ C trong khoảng thời gian tối thiểu là 30 phút hoặc được hun trùng bằng metyl bromua khoảng 16 tiếng.
* Phải có ký mã hiệu quốc tế xác nhận đã xử lý: Bao bì bằng gỗ phải có ký hiệu logo của Công ước bảo vệ cây trồng quốc tế (IPPC) và mã 2 chữ cái theo qui định của Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế (ISO) đối với nước đã xử lý gỗ bao bì. Ký mã hiệu cũng phải bao gồm cả số riêng mà tổ chức bảo vệ thực vật quốc gia cấp cho công ty chịu trách nhiệm đảm bảo WPM được xử lý đúng qui định, cùng với chữ viết tắt HT (heat treatment) hoặc MB (metyl bromua). Không cần phải có giấy chứng nhận xử lý.

III. Tiêu chuẩn hoá bao bì
        1.Khái niệm và nội dung của tiêu chuẩn hoá bao bì
Tiêu chuẩn hoá về bao bì là sự quy định thống nhất về các yêu cầu và các chỉ tiêu kinh tế-kỹ thuật đối với các loại bao bì nhằm bảo đảm iữu gìn tốt sản phẩm được bao gói và tạo điều kiện thống nhất trong sản xuất, lưu thông, sử dụng, cũng như tiết kiệm nguyên vật liệu bao bì
* Nội dung chủ yếu của tiêu chuẩn hoá bao bì :
– Yêu cầu về hình dạng và kích thước bao bì
– Yêu cầu về chỉ tiêu và thông số kỹ thuật
– Yêu cầu về ghi nhãn, bao gói, vận chuyển, và phương pháp thử nghiệm
* Những điển hình về tiêu chuẩn hoá bao bì
+ Mâm tải: có cấu tạo  bằng gỗ hoặc nhựa cứng, có kích thước tuỳ vào loại phương tiện vận tải
+ Thùng tải(Container): là loại thùng chứa hàng dặt biệt, có kích thước được tiêu chuẩn hoá(độ dài
20ft=6,1m; 40ft=12,2m và 45ft=13,7m).
Thùng tải có nhiều loại: cố định, không cố định, loại cứng, loại mềm, loại bằng gỗ khung kim loại, loại bằng kim loại, chất dẻo…Có thể phân loại thùng tải chuyên dùng và thùng tải dùng chung.
            2. Tác dụng của tiêu chuẩn hoá bao bì
+ Tạo điều kiện để sản xuất hàng loạt, nâng cao năng sất lao động, hạ giá thành
+ Giảm bớt và đơn giản hoá các thao tác trung gian trong quá trình vận chuyển, rút ngắn thời gian vận chuyển…
+ Đảm bảo an toàn hàng hoá, tránh đổ vỡ, hao hụt, xáo trộn, mất cắp…
+ Là điều kiện quan trọng để chuyên môn hoá dụng cụ tháo mở bao bì

           3.Liên hệ thực tế về tiêu chuẩn hoá bao bì:

Tiêu chuẩn hóa bao bì không chỉ quan trọng với sức khỏe và độ an toàn, nó cũng đang trở nên quan trọng đối với quản lý sản xuất, chất lượng, sản xuất thân thiện với môi trường và trách nhiệm xã hội.
Cụ thể là hiện nay trong nghành Bưu chính  đang đặt ra câu hỏi là cần tiêu chuẩn hoá bưu gửi theo tiêu chuẩn nào, có quá khó hay không?

Theo như nghiên cứu của Học viện công nghệ BCVT, Bưu chính một số nước xác định kích thước tối đa và tối thiểu, sao cho tiêu chuẩn bao bì, kích thước bưu phẩm phù hợp với các loại bưu gửi.

+Ví dụ: tờ A4 có kích thước là 210x297mm, để chứa các tờ giấy đó mà không gấp thì phong bì phải có kích thước 229x324mm. Họ còn quy định về kích thước phong bì bưu gửi để đóng gói thư từ là các tờ giấy A4 gấp đôi và gấp tư.

– Đồng thời, tiêu chuẩn giấy cũng được quy định để đảm bảo hai yếu tố là bao bì vừa đủ độ bền, chắc để bảo vệ giấy tờ bên trong, vừa phù hợp với thiết kế của máy chia thư và các thiết bị khác trong dây chuyền xử lý.

– Tiêu chuẩn phong bì cũng được tính toán kỹ về khối lượng để giảm thiểu cước gửi.

Đối với bưu kiện, nhiều nước sử dụng bao bì carton gợn sóng và thùng gỗ kín có đục lỗ để chở hoa quả. Quy chuẩn bao bì được giải quyết theo hai loại:

– Bao bì sử dụng nhiều lần

– Bao bì bằng carton gợn sóng.

Trong thực tế, kích cỡ bưu kiện được chuẩn hoá theo hướng càng thiết kế nhiều loại thì chất lượng phục vụ khách hàng sẽ càng tốt hơn, nhưng nếu số lượng tăng nhiều quá khiến cho cấu trúc thiết bị xử lý (khay, máng trượt), và thiết bị bốc dỡ sẽ trở nên phức tạp, do đó cần phải hạn chế số lượng kích thước bao bì ở mức tối thiểu nhất.

Tổ chức Bưu chính châu Á Thái Bình Dương quy định có 5 kích cỡ cho những bưu kiện gói nhỏ, 4 kích cỡ cho bưu kiện loại vừa, 4 kích cỡ cho bưu kiện loại to, 1 kích cỡ cho loại bưu kiện cực to.

Từ năm 2003, công ty Bưu chính liên tỉnh và quốc tế (VPS) đã đầu tư hệ thống sản xuất phong bì, song không phải trên toàn mạng bưu chính đều dùng các loại phong bì tiêu chuẩn của VPS, bởi vì chưa có quy định nào bắt buộc khách hàng cũng như Bưu điện tỉnh phải sử dụng phong bì chuẩn để gửi bưu điện.

“Việc sản xuất phong bì đã được xã hội hoá, do vậy cần phải có một cơ quan quản lý nhà nước về tiêu chuẩn ban hành quy chuẩn về kích cỡ, chất lượng phong bì để bất cứ doanh nghiệp sản xuất lớn, nhỏ nào cũng phải tuân theo”, ông Trần Phương Đông nói.

Đối với bưu kiện có nhiều khó khăn hơn, Bưu chính nhiều nước họ phát không bao bì bưu kiện cho người gửi, một số nước thì bán cho khách hàng tại các điểm giao dịch, hoặc các điểm cung ứng hàng hoá. Ở Việt Nam, bưu kiện vẫn là dịch vụ bưu chính đang bù lỗ, do đó nếu cung cấp miễn phí bao bì bưu chính sẽ càng lỗ nặng hơn.

Hiện có nhiều ý kiến cho rằng, cần coi việc cung cấp bao bì bưu kiện phục vụ cho bưu chính, chuyển phát là một lĩnh vực có cạnh tranh, và doanh nghiệp nào có đủ điều kiện sẽ được sản xuất. Song có một vấn đề đặt ra là, doanh nghiệp phải dự báo sản lượng từng loại bưu kiện thế nào để xác định được phương án sản xuất từng loại bao bì.

Để làm được điều này cần phải đánh giá được nhiều thông số như: mối quan hệ giữa trọng lượng và kích thước bưu kiện, tần số xuất hiện các loại bưu kiện, kết cấu chất liệu bao bì phổ biến, dự báo được nhu cầu sử dụng từng loại bưu kiện. Điều này các nhà cung cấp dịch vụ làm được còn khó, cho nên cách doanh nghiệp ngoài khó chen chân vào lĩnh vực này.

Một số ý kiến khác cho rằng, trong khi đợi Nhà nước ban hành được hệ thống tiêu chuẩn, để sử dụng hiệu quả hệ thống khai thác, chia chọn tự động, Bưu chính Việt Nam cần chủ động quy định một tiêu chuẩn thống nhất trên toàn mạng lưới. Khi đó, giao dịch viên có căn cứ đề nghị khách hàng sử dụng phong bì, bao bì bưu kiện đúng tiêu chuẩn.
IV.Nghiên cứu thị trường cho mẫu bao bì mới.
           1.Yếu tố cơ bản để thiết kế thành công một bao bì sản phẩm
Vai trò của bao bì ngày càng trở nên quan trọng hơn trong việc xây dựng một thương hiệu mạnh và nhất quán. Bao bì không chỉ có tác dụng bảo vệ, mô tả và giới thiệu sản phẩm mà nó còn chứa đựng rất nhiều nhân tố tác động đến khách hàng và việc quyết định lựa chon mua hàng của họ. Để luôn là lựa chọn số một của khách hàng trước những đối thủ cạnh tranh thì đâu là yếu tố chính trong việc xây dựng những yếu tố thành công trong việc thiết kế bao bì ?
Dựa trên cơ sở những nhân tố tác động đến khách hàng khi lựa chọn và so sánh những sản phẩm cùng loại chúng ta hãy tham khảo 8 yếu tố cơ bản trong việc lựa chọn thiết kế một bao bì đẹp, đó là:

1.1 Sự phối hợp nhất quán
Đây là tiêu chuẩn cốt lõi của một bao bì thành công. Sự phối hợp nhất quán là phải thể hiện được một phong cách riêng của thương hiệu sản phẩm. Màu sắc, bố cục, phông nền là những yếu tố giúp cho việc nhận dạng hình ảnh thương hiệu nhanh hơn nhiều lần, và giúp cho khách hàng có thể nhớ được những đặc tính riêng của sản phẩm đó, mặc dù họ có thể mua hàng ở nhiều cửa hàng khác nhau. Một sản phẩm có thể thay đổi màu sắc bao bì theo từng giai đoạn để tạo sự hấp dẫn, nhưng nó phải tuân theo nguyên tắc nhất quán trong việc nhận diện thương hiệu sản phẩm đó

1.2 Sự ấn tượng
Khi tặng quà cho một ai đó thì việc gói quà đã thể hiện sự tôn trọng đối với người nhận. Một món quà được gói đẹp và chăm chút trước hết đã gây được một ấn tượng ban đầu tốt đẹp đối với người nhận, cho dù chưa biết món quà bên trong như thế nào. Bao bì của sản phẩm cũng vậy, cách thiết kế và đóng gói bao bì cũng đã thể hiện được một phần của sản phẩm bên trong bao bì. Tính ấn tượng còn đặc biệt có ý nghĩa với những  bao bì cao cấp dành cho những sản phẩm sang trọng. Việc thiết kế bao bì cho những mặt hàng đắt giá đòi hỏi phải có sự chọn lựa kĩ từ chất liệu cho đến màu sắc thiết kế, thông qua đó thể hiện được “đẳng cấp” của người mua.
1.3 Sự nổi bật
Trên một kệ trưng bày không chỉ có sản phẩm của chúng ta mà còn có thể có các sản phẩm khác cùng loại của đối thủ cạnh tranh. Vì vậy sự nổi bật là một yếu tố rất quan trọng để tạo ra sự khác biệt. Nhà thiết kế phải hiểu rằng sản phẩm sẽ được người tiêu dùng so sánh, nhận định với hàng loạt những sản phẩm khác với rất nhiều phong cách và màu sắc đa dạng. Và để có thể cạnh tranh được, nhà thiết kế phải làm cách nào để sản phẩm của mình sẽ là điểm nhấn giữa một loạt sản phẩm khác. Muốn làm được điều này đòi hỏi nhà sản xuất đã phải nghiên cứu kĩ thị trường từ bước định vị sản phẩm đầu tiên đến việc xây dựng một hệ thống nhận diện thương hiệu hiệu quả. Khả năng sáng tạo cao cũng sẽ giúp việc thiết kế bao bì tránh được những lối mòn quen thuộc đến nhàm chán của các bao bì ngoài thị trường.

1.4 Sự hấp dẫn
Trong một số ngành hàng, đặc biệt trong ngành mỹ phẩm, bao bì phải thể hiện được sự hấp dẫn, lôi cuốn, gây thiện cảm và nhấn mạnh các đặc tính của sản phẩm. Bao bì trong những ngành này có thể được xem như một phần của sản phẩm tạo ra những giá trị cộng thêm cho khách hàng. Sản phẩm được thiết kế dành cho nam giới bao bì phải thể hiện được sự nam tính, khác hẳn với sản phẩm dành cho nữ giới với những đường nét mềm mại quyến rũ.

1.5 Sự đa dụng
Bao bì thông thường người ta chỉ nghĩ đến việc đựng sản phẩm và sử dụng xong rồi bỏ,  rất lãng phí. Vì vậy trong cuộc cạnh tranh ngày nay người ta thường tìm cách thêm giá trị sử dụng cho bao bì. Những chi tiết tưởng chừng nhỏ nhặt đôi khi sẽ là một lợi thế cạnh tranh lớn của sản phẩm so với các đối thủ khác. Bao bì sữa tắm ngày nay thường có thêm móc để treo trong phòng tắm thuận tiện , hình dáng thon để cầm nắm được dễ dàng. Nắp đậy của của những chai Comfort làm mềm vải  có thêm chức năng làm mức đo lượng sử dụng. Hộp bánh kẹo bằng thiếc rất sang trọng và khi dùng hết có thể sử dụng làm hộp đựng linh tinh.Tất cả những điều này giúp cho sản phẩm trở nên thông dụng và phù hợp hơn trong đời sống hàng ngày của người tiêu dùng

1.6 Chức năng bảo vệ
Đã là bao bì thì luôn phải có chức năng bảo vệ sản phẩm bên trong. Tuy nhiên không thiếu những bao bì đã không xem trọng chức năng này. Bao bì phải được thiết kế làm sao bảo vệ được sản phẩm bên trong một cách an toàn nhất. Người ta ưa thích dùng bao bì kín hoặc hút chân không để giúp cho sản phẩm để được lâu hơn. Bao bì dành cho thực phẩm và đồ uống phải đáp ứng được những tiêu chuẩn bắt buộc trong việc bảo đảm chất lượng sản phẩm.

1.7 Sự hoàn chỉnh

Yếu tố này giúp cho việc thiết kể kiểu dáng bao bì phù hợp với sản phẩm bên trong của nó và điều kiện sử dụng sản phẩm đó. Bao bì phải thích hợp với việc treo hoặc trưng bày trên kệ bán hàng, có thể dễ dàng để trong hộp carton. Bao bì dành cho thức ăn phải để được vào tủ lạnh vừa vặn và không tốn không gian.. Bút viết dành cho trẻ em phải khác với bút viết dành cho nguời lớn. Bút để kẹp trên áo khác với bút cất trong cặp. Rất nhiều yếu tố mà khách hàng quan tâm cần phải được nhà thiết kế xem xét một cách tỉ mỉ để tạo cho bao bì một sự hoàn thiện tránh mọi khuyết điểm không đáng có. Sẽ có sự lựa chọn nên nhấn mạnh điểm nào giữa sự tiện lợi, sự nổi bật hay sự đa dụng để tạo ra sự hoàn chỉnh cho sản phẩm

 1.8 Sự cảm nhận qua các giác quan
Một bao bì tốt phải thu hút được sự cảm nhận tốt của người tiêu dùng về sản phẩm thông qua việc nhìn ngắm, săm soi và sờ mó vào sản phẩm. Chúng ta thường ít chú ý đến xúc giác của người tiêu dùng mà thường chỉ nhấn mạnh vào yếu tố bắt mắt. Nhưng xúc giác lại có vai trò quan trọng trong việc cảm nhận về kích cỡ, kết cấu sản phẩm, chất liệu bao bì và từ đó ảnh hưởng đến việc nhận xét chất lượng sản phẩm.  Chúng ta không thể bỏ qua một yếu tố nào trong những  yếu tố trên vì nó sẽ làm mất đi một lợi thế không nhỏ so với đối thủ cạnh tranh. Việc áp dụng những yếu tố này còn đỏi hỏi phải tìm hiểu kĩ nhu cầu và đối tượng khách hàng hướng đến. Xác định được đâu là nhu cầu và mong muốn của người tiêu dùng đối  một sản phẩm và đối với bao bì sản phẩm sẽ giúp cho việc định hướng và thiết kế được nhanh hơn và hiệu quả hơn
 2.Nghiêm cứu thị trường cho mẫu bao bì mớia phát triển bao bì.

Các công ty tiếp cận thách thức này bằng cách áp dụng hoặc chấp nhận các phương pháp nghiên cứu mà họ đang sử dụng để đánh giá hiệu quả của quảng cáo. Mặc dù vậy, việc áp dụng này cũng đặt ra một số khó khăn, vì nhiều nhân tố của bao bì – và marketing tại điểm bán – thường là khác so với hoạt động quảng cáo. Với suy nghĩ này, chúng ta có thể sử dụng 5 nguyên tắc để đảm bảo rằng các nghiên cứu định tính đo lường chính xác ảnh hưởng của hệ thống bao bì mới – cũng như giúp đưa ra các quyết định kinh doanh chính xác.

Nguyên tắc 1: Tránh các cuộc thi:

Bao bì chính là để thông tin và thuyết phục khách hàng, nhưng những nghiên cứu về bao bì nếu không được thực hiện tốt có thể sẽ chỉ đưa ra được những kết luận không cần thiết về “thiêt kế hình vẽ”, thay vì cần phải đánh giá hiệu quả thông tin của bao bì. Chính vì lý do này, một nguyên tắc quan trọng nhất khi nghiên cứu bao bì là thiết kế một nghiên cứu hoàn chỉnh, từng người tham gia nghiên cứu sẽ nhìn và phản ứng lại từng bao bì – và những kết quả tìm được sẽ được so sánh chéo (những người đã thấy lọai bao bì đang lưu hành với những người được quan sát bao bì mới đang nghiên cứu). Cách làm này thúc đẩy sự phát triển và đưa ra các bao bì mới, và nó cũng đánh giá hiệu quả các thay đổi về bao bì ảnh hưởng tới thái độ và ứng xử của người mua như thế nào.

Khi người mua hàng so sánh trực tiếp những mẫu bao bì khác nhau (của cùng một nhãn hiệu) trên cơ sở đặt cạnh nhau, việc so sánh sẽ tạo ra một cái nhìn không chính xác – vì cách nhìn đó ít khi người mua gặp phải tại cửa hàng. Khi đó, sự so sánh đặt cạnh nhau thường làm cho mục tiêu nghiên cứu trở thành kiểm tra trình độ của “Nhà chỉ đạo nghệ thuật” (Art Directors) hay “Nhà quản trị thương hiệu” (Brand Managers) thay vì mục tiêu nghiên cứu cũ là xem xét xem người mua hàng quyết định có mua hàng hay không. Do đó, kết quả là “80% khách hàng thích nhãn hiệu mới hơn nhãn hiệu cũ” không có ý nghĩa nhiều tới việc thay đổi bao bì có ảnh hưởng tới bán hàng như thế nào. Cuối cùng, sự đánh giá về hệ thống bao bì không chỉ là về các yếu tố về thiết kế, mà là về mức độ ảnh hưởng tới hành vi mua như thế nào.

Nguyên tắc 2: Đo lường khả năng bắt mắt ngay trên kệ hàng:

Bao bì là thông tin duy nhất về sản phẩm trên kệ hàng, nó phải thực thi nhiệm vụ thu hút khách hàng trong thời gian rất ngắn – thông thường chỉ 10 – 20 giây, đó là thời gian trung bình của người mua ra quyết định mua. Theo đó, thách thức cho bao bì là cần phải tạo ra cơ hội bán hàng trong 10 – 20 giây ngắn ngủi ấy. Trong thực tế, sau nhiều năm nghiên cứa của  PRS Eye-Tracking cho thấy rằng người mua hàng thậm chí chưa bao giờ nhìn quá một phần ba số thương hiệu trưng bày. Nghiên cứu cũng cho thấy rằng nếu bao bì được chú ý một cách nhanh chóng cũng có nghĩa là sẽ có nhiều khả năng được mua hơn.

Đối với các thương hiệu lớn, vấn đề là làm sao thúc đẩy mua hàng nhanh chóng bằng cách hướng người mua hàng tới các sản phẩm mà họ mong muốn – và có khả năng tăng cường hành vi mua bằng cách làm nổi bật tính năng mới của sản phẩm. Trong bất cứ trường hợp nào, nếu người mua hàng không thể tìm thấy hàng muốn mua trong 10-15 giây thì họ sẽ chuyển sang mua thương hiệu khác.

Thật không may rằng có ít cách thức đo lường hiệu quả trưng bày trên kệ bán của sản phẩm – các điều tra nhanh và ẩu về truyền tải thông tin rất dễ dấn đến hiểu lầm. Đặc biệt, nghiên cứu chỉ ra rằng khi bao bì được trưng bày tách biệt (trên bảng hoặc trên màn hình), người mua không thể đo lường một cách chính xác khả năng dễ phát hiện trên giá của hàng hoá cũng như khả năng trưng bày tại cửa hàng. Thêm vào đó, nếu khả năng nhớ lại việc tiêu dùng sản phẩm là kém và các chỉ số về đánh giá hiệu quả trưng bày được đo sai, nhà sản xuất khó đưa ra quyết định đúng. Điểm chủ chốt là không có cách thức nào khác để đo lường những hiện tượng xảy ra khi người mua hàng tiếp xúc với bao bì trên giá hàng, chẳng hạn họ sẽ để ý cái gì, những gì họ thấy, họ cầm lấy những gì và mua những gì. Điều quan trọng là hầu hết các quyết định thiết kế bao bì lại bị ảnh hưởng bởi những kiến thức thu được từ những điều tra như thế này, thay vì phải nghiên cứu xem thực tế người mua hàng nghĩ gì hay nhớ gì.

Nguyên tắc 3: Cần có sự cạnh tranh

Bao bì khác với quảng cáo ở chỗ bao bì thường phải cạnh tranh trực tiếp với bao bì khác của đối thủ cạnh tranh được đặt ngay cạnh trên giá. Nói cách khác, bao bì ít khi được đánh giá một mình. Đối với thiết kế bên ngòai cần đánh giá trên nguyên tắc cạnh tranh – và nghiên cứu cần thu thập dữ liệu trên cơ sở so sánh các bao bì với nhau, trong đó cần so sánh với bao bì của các thương hiệu hàng đầu.

Thêm vào đó, bởi vì các khách hàng thường dành vài giây trong việc so sánh các sản phẩm khác nhau, nên cần so sánh các hệ thống bao bì khác nhau về khả năng truyền đạt tthông điệp ngay tức khắc. Môt thiết kế bao bì tốt thường sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh quan trọng  bằng cách nắm bắt được hướng tiếp cận chủ chốt thông qua sự trình bày độc đáo (màu sắc, hình dáng, biểu tượng) hoặc nổi bật rõ ràng thông điệp tạo sự khác biệt. Về khía cạnh truyền đạt thôgn điệp, nghiên cứu PRS Eye-Tracking về nhãn hiệu chỉ rõ rằng “càng đơn giản càng tốt”, và nếu đưa ra quá nhiều thông điệp sẽ giảm hiệu quả. Chiến lược hiệu quả nhất là xác đinh một hoặc hai thông điệp thật hiệu quả và khác biệt, và chắc chắn rằng các thông điệp này được chuyền tải nhanh và nhất quán.

Nguyên tắc 4: Đưa ra bao bì “hoàn chỉnh”, không trình bày chỉ những thành phần đơn lẻ: 

Để tạo ra sự rõ ràng và hiệu quả, cần định rõ các đặc điểm cụ thể của bao bì. Tuy nhiên, khách hàng thường phản ứng hoặc đánh giá các đặc điểm của bao bì (như logo, màu sắc…) trên quan điểm mỹ thuật thay vì quan điểm mua hàng. Hướng suy nghĩ này dẫn tới nhiều nhận định rằng các yếu tố cụ thể của bao bì được xếp tương đương với phản ứng của khách hàng đối với bao bì. Quan trọng hơn, tách rời cách yếu tố của bao bì sẽ dẫn tới trạng thái tâm lý rằng thiết kế cần tối ưu hoá từng thành phần của bao bì thay vì tổng thể (như nắp chai, màu săc tốt nhât)

Để rõ ràng, nhiều nghiên cứu thu thập các dữ liệu về phản ứng của khách hàng đối với bao bì trên quan điểm tổng thể – và các nghiên cứu này đã khám phá ra những yếu tố nào của bao bì ảnh hưởng tới phản ứng của khách hàng. Ngừơi bán hàng có thể kiểm tra các version khác nhau của bao bì để xác định khả năng ảnh hưởng của từng yếu tố của bao bì nếu đặt trên giá bán hàng và thông điệp có thể mang lại. Xét tổng quan, mục tiêu quan trọng nhất là có thể xác định được điểm mạnh và hạn chế của bao bì và xác định các vấn đề quan trọng cũng như vấn đề đáng quan tâm, thông điệp đem lại. Những thông tin này giúp cho cho chuyên gia marketing và thiết kế xây dựng các giải pháp giải quyết các vấn đề.

Nguyên tắc 5: Không dựa vào một giải pháp duy nhất:

Các Chuyên gia tiếp thị luôn phải tìm kiếm những giải pháp mới cho thiết kế bao bì. Vấn đề cần quan tâm ở đây là “Liệu những cải tiến mới có thể tạo ra nhiều đơn hàng hơn không?”

Dù vậy, nghiên cứu chỉ ra rằng mua hàng một lần chỉ là môt phần nhỏ của câu chuyện – và có một số ít bao bì thay đổi có thể đáp ứng được mục tiêu là tăng đột biến lượng bán. Thực tế là một lần thay đổi bao bì ít tồn tại được trong thời gian dài nhưng có thể làm cho khách hàng của đối thủ chuyển sang dùng thử nếu thấy đặc biêt. Nói cách khác, mục tiêu là tạo ra một khả năng tiêu dùng cho người chưa phải là khách hàng.

Để có một sự phỏng đoán khá chính xác về tỷ suất đầu tư (ROI), các nghiên cứu về bao bì nên có thêm các nghiên cứu về kích thích mua hàng với một loạt các nghiên cứu liên quan trực tiếp tới tiềm năng xây dựng khách hàng trong dài hạn ví dụ nghiên cứu cách trình bày trên giá, về thẩm mỹ, khả năng tạo sự khác biệt và cách thuyết phục người mua hàng.

Cuối cùng các công ty đầu tư vào nghiên cứu bao bì sẽ thu được nhiều lợi ích từ phát triển bán hàng, tạo ra những mẫu bao bì độc đáo thúc đẩy bán hàng trên thị trường

             3.Sức mạnh của kiểu dáng bao bì
*Nói đến bao bì không chỉ đơn thuần là nói đến hình dáng bên ngoài.

Đây chính là sự kết hợp phức tạp của các biểu tượng, thông tin được một công ty sử dụng như dấu hiệu để nhận biết sản phẩm của mình. Ngoài ra, bao bì còn mang ý nghĩa thứ yếu nữa là có thể giúp người tiêu dùng xác định nguồn gốc hàng hóa hay dịch vụ, trên thế giới luôn coi bao bì là một sản phẩm trí tuệ được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Bao bì không chỉ có tác dụng bảo vệ sản phẩm (Protection) mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc xúc tiến sản phẩm (Promotion), xét từ góc độ kinh doanh. Hình ảnh thiết kế trên bao bì được pháp luật bảo vệ, tránh trường hợp bị các đối thủ cạnh tranh sao chép hay làm giả sản phẩm. Đó là chức năng bảo vệ. Còn với chức năng xúc tiến, bao bì có tác dụng thu hút khách hàng và tạo ra nét đặc trưng hay phong cách riêng cho sản phẩm. Một sản phẩm, nếu đã gặt hái thành công nhất định tại một thị trường, thì cùng với bao bì đó, sản phẩm sẽ không mấy khó khăn để chinh phục người tiêu dùng tại những thị trường khác.

Nhận ra tầm quan trọng của bao bì sản phẩm, ngày nay, các công ty luôn chú ý đến quá trình thiết kế và kiểm tra bao bì, mà phương pháp phổ biến hơn cả thường được các công ty áp dụng cho sản phẩm của mình là VIEW- viết tắt của 4 từ tiếng Anh, thể hiện 4 đặc trưng trên bao bì sản phẩm.

V:Visibility- sự rõ ràng

Bao bì phải làm cho sản phẩm có thể được phân biệt dễ dàng đối với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh.

Ví dụ:

Hãng phim Konica đã sử dụng bao bì màu xanh dương ở thị trường Âu Mỹ nhằm phân biệt với bao bì màu vàng của Kodak và màu xanh lá cây của Fuji. Ngoài ra, bao bì của bất kỳ sản phẩm nào cũng không được phép trùng lặp với bao bì của sản phẩm khác đã có mặt trên thị trường.

I: Informative – cung cấp nhiều thông tin:

Bao bì phải thể hiện được thông tin tối đa về bản chất sản phẩm, chẳng hạn như tên sản phẩm, trọng lượng, ngày sản xuất, thành phần, điều kiện bảo quản, hướng dẫn sử dụng… Đây là những thông tin quan trọng mà khách hàng luôn muốn tìm hiểu để biết kỹ hơn về sản phẩm họ định mua.

Ví dụ:

Trên mỗi chai trà xanh không độ đều có ghi: ngày sử dụng, nơi sản xuất, điều kiện bảo quản, uống ngon hơn khi ướp lạnh…

E: Emotional impact – tác động về mặt cảm xúc:

       Kiểu dáng bao bì phải tạo ấn tượng và làm khách hàng ưa chuộng. Khách hàng sẽ chú ý trước tiên đến những sản phẩm có bao bì đẹp, nhiều màu sắc, tao nhã hay pha chút gì đó độc đáo, lạ mắt. Sức hút của bao bì thể hiện ở đặc điểm này: nó làm cho sản phẩm có tính cạnh tranh hơn và hấp dẫn hơn đối với người tiêu dùng.

 Ví dụ:

Khi người tiêu dùng uống bia thì khi cầm chai bia heniken khách hàng sẽ có cảm giác thích ưống hơn vì màu xanh lơ của chai heniken trông dễ chịu,sang trọng hơn so với các loại khác như tiger,laru….
W: Workability – giá trị sử dụng:

     Chức năng của bao bì là vừa phải bảo vệ sản phẩm, vừa phải hữu ích sau khi sản phẩm đã được sử dụng xong. Đôi khi khách hàng cảm thấy tiếc, nếu sử dụng xong sản phẩm cũng là lúc vứt đi bao bì rất đẹp và chắc chắn của sản phẩm đó. Nguyên nhân là do bao bì không được thiết kế dành cho những công năng khác. Giá trị sử dụng của bao bì thể hiện ở chỗ nó có thể được sử dụng vào nhiều mục đích khác như đựng thức ăn, đồ uống, gói đồ, để lót nền, và thậm chí có thể cả trưng bày.
Yếu tố ngôn ngữ cũng cần được các công ty đặc biệt chú trọng khi thiết kế bao bì sản phẩm. Tuỳ theo từng thị trường tại mỗi quốc gia cụ thể mà công ty đề ra chính sách về ngôn ngữ cho phù hợp.

Ví dụ:

Đối với sản phẩm bán ở Ðức, bao bì phải in tiếng Ðức, sản phẩm bán ở Canada, bao bì phải in song ngữ Anh và Pháp, sản phẩm bán ở Ðan mạch và một vài nước Châu Âu khác thì bao bì chỉ cần in tiếng Anh là đủ. Hiện nay, bao bì đa ngôn ngữ đang dần trở nên phổ biến đối với khách hàng tiêu dùng. Hãng Kellogg của Ðức đã in …10 thứ tiếng trên vỏ bao sản phẩm đĩa mềm của mình.

Số lượng sản phẩm được đóng gói bên trong các bao bì cũng khá quan trọng và thay đổi tuỳ thuộc vào những sở thích khác nhau của người tiêu dùng.

Ví dụ: ở thị trường Nhật, mỗi bao bì không nên gói 4 đơn vị sản phẩm, vì từ “four” tiếng Anh sẽ được phát âm gần giống như từ “chết” trong tiếng Nhật. Hộp bánh quy ở Mỹ còn cần có thêm các bao bì phụ bọc từng gói nhỏ trong hộp bánh, trong khi ở các thị trường khác chỉ cần một bao bì gói chung tất cả là đủ.

          4.Sự lãng phí trong bao bì:

      Bao bì là một khía cạnh quan trọng của việc di chuyển hàng hoá. Nó phục vụ một số mục đích bao gồm bảo quản, tạo thuận lợi trong di chuyển và cung cấp thông tin về sản phẩm. Tuy nhiên, khi bạn mua món hàng nào đó, bạn có thể ngạc nhiên về số lượng bao bì. Bánh kẹo và chocolat thường có 3 lớp bao bì, đôi khi bạn có thể thấy nó có 5 lớp. Nhưng hãy nhớ rằng bạn chỉ thấy lớp bao bì dành cho khách hàng tiêu dùng cuối cùng, và có thể còn 2 lớp bao công nghiệp đã được dỡ bỏ. Rõ ràng vấn đề về số lượng bao bì đang ngày càng lớn liên quan đến chi phí và việc xử lý rác thải, Anh quốc sản xuất  trung bình khoảng 8 triệu tấn bao bì mỗi năm và một nữa trong số đó là bao bì công nghiệp.

Thông thường thì bao bì công nghiệp có thể tái sử dụng và tái chế nhiều lần so với bao bì tiêu dùng vì chúng chắc chắn hơn và có thể thu thập dễ. Bao bì tiêu dùng phân tán hơn nhưng có một số công ty, như bodyshop, có chính sách giảm vấn đề này bằng cách sử dụng các bao bì có thể tái sử dụng. Đây là một vấn đề quan trọng, EU, và các khu vực khác đều đưa ra các giới hạn liên quan đến số lượng bao bì mà công ty có thể vướt bỏ. Một số nước chỉ cho phép bao bì bằng thuỷ tinh nếu chúng được thu thập lại và tái sử dụng hoặc ít nhất là tái chế. Cũng có các quy định tương tự đối với các bao bì bằng kim loại, đặc biệt là các thùng nhôm. Có lẽ đáng lưu ý nhất là các quy định về các loại bao bì khác,  những quy định này ngày càng gây sức ép đối vơí các tổ chức trong việc báo cáo số lượng bao bì mà họ sử dụng và số bao bì họ tái chế. Nếu họ không thành công trong việc đạt các mục tiêu về tái chế bao bì, họ sẽ phải đối mặc với heavy fines.EU cũng theo kịch bản này với tỷ lệ tái chế mục tiêu là 50%.

                         V.Qúa trình nghiệp vụ bao bì.

1.Tiếp nhận bao bì.

Tiếp nhận bao bì là công tác nhằm kiểm tra và đánh giá tình trạng số lượng và chất lượng bao bì và cũng là hình thức tiếp nhận số lượng và tiếp nhận chất lượng. Vì vậy khi tiếp nhận phải xác định trách nhiệm vật chất của các bên trong việc chuyển giao bao bì căn cứ vào các văn bản pháp lý như các tiêu chuẩn về bao bì, quy định về tiếp nhận hàng hoá, bao bì …vào các cam kết trong hợp đồng kinh tế hoặc đơn đặc hàng. Trong trường hợp bao bì không đảm bảo số lượng và chất lượng phải lập biên bản nhằm quy trách nhiệm vật chât rõ ràng.

2.Mở và bảo quản bao bì.

Là công tác để phá dở hàng hoá ra khỏi bao bì và giữ gìn số lượng và chất lượng bao bì trong,  sau khi mở bao bì.

Về yêu cầu:đảm bảo giữ gìn tốt bao bì trong quá trình tháo dở hàng hoá và bảo quản, tận dụng diện tích và thể tích khu vực bảo quản.

Nguyên tắc của mở bao bì:theo đúng quy trình, đúng kỷ thuật và dụng cụ. Do đó đối với mỗi loại bao bì cần xây dựng quy trình, quy phạm mở bao bì thích hợp.

Nội dung của bảo quản bao bì:

+Vệ sinh và phân loại bao bì theo quyền sở hữu vào mức độ chất lượng để thuận tiện cho việc xử lý bao bì và bảo quản bao bì.

+Phân bố và chất xếp bao bì đảm bảo tận dụng diện tích và dung tích nơi bảo quản, thuận tiện cho việc chăm sóc giữ gìn bao bì.

+Đảm bảo các điều kiện giữ gìn tốt bao bì: tránh nắng mưa, chống các hiện tượng sử dụng bao bì không đúng mục đích.

3.Hoàn trả và tiêu thụ bao bì đã qua sử dụng

      Là công tác nhằm hoàn trả bao bì sử dụng nhiều lần cho chủ sở hữu và tiêu thụ bao bì theo các hình thức xác định.

Sử dụng lại bao bì và tận dụng vật liệu bao bì đã qua sử dụng có ý nghĩa lớn đối với nền kinh tế và đối với bản thân các doanh nghiệp, cụ thể: tiết kiệm nguồn tài nguyên, lao động và các chi phí để chế tạo bao bì.

Yêu cầu hoàn trả bao bì cho chủ sở hửu theo đúng chế độ và cam kết giữa các bên, tận thu và tiêu thụ nhưng bao bì đã qua sử dụng với chi phí thấp nhất.

-Hoàn trả: nhữg bao bì dùng nhiều lần, là tài sản của bên chủ hàng hoặc bên cho thuê mướn bao bì phải tiến hành hoàn trả lại theo cam kết pháp lý.

-Tiêu thụ: bán các loại bao bì hoặc vật liêu bao bì đã qua sử dụng cho các đơn vị sản xuất hàng hoá hoặc sản xuất bao bì để sử dụng lại hoặc dùng làm vật liệu chế tạo bao bì.

  1. Kết luận:Như ông cha ta ngày xưa có nói:
    “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”
    Đây là câu tục ngữ có chứa hàm ý là nói về nội dung bên trong và hình thức bên ngoài của một vấn đề.
    Câu tục ngữ này là một câu nói không hoàn toàn đúng mà nó chỉ đúng một phần thôi, nội dung đúng là quan trọng thật thế nhưng hình thức cũng không kém phần quan trọng, cụ thể điều này chúng ta có thể thấy qua thị trường hàng hoá ngày nay, một người khi muốn mua một món quà nào đó thì điều đầu tiên họ quan tâm đó là chất lượng bên trong sản phẩm, nhưng để món quà đó có tính sang trọng, và thể hiện được giá trị và sự đặc biệt của món quà thì hình thức sẽ là một yếu tố tạo nên sự sang trọng và quý phái đó. Chẳng hạn khi bạn muốn mua một hộp bánh trung thu để tặng cho cấp trên thì điều đầu tiên mà bạn quan tâm đó là thương hiệu của bánh ,sau đó là mẫu mã và kiểu dáng bao ngoài của bánh, nếu như chất lượng bánh đã tốt có thương hiệu nổi tiến thế nhưng bao bì bên ngoài không được đẹp thì nó cũng không phản ánh hết được giá trị bên trong của sản phẩm. Vì vậy để  chọn được một sản phẩm ưng ý , bạn nên chọn sản phẩm đó bằng cách kết hợp cả nội dung bên trong và hình thức bên ngoài.
    Như vậy để kích thích cũng như thoã lòng khách hàng thì bên cạnh việc để ý đến chất lượng của sản phẩm thì các doanh nghiệp cần phải quan tâm đến bao bì bên ngoài vì lớp bao bì này sẽ làm tăng tính tò mò và sự hài lòng trong việc mua hàng.

       Như các bạn đã biết thì trước đây yếu tố bao bì chỉ được xem như là một lớp ngoài để bảo vệ sản phẩm nhưng ngày nay bao bì giới thiệu một kiểu phân phối mới, gợi ra những phẩm chất của sản phẩm của doanh nghiệp, giúp cho người tiêu dùng dễ nhận biết sản phẩm và nhãn hiệu, tạo ra cho người tiêu dùng sự tin tưởng và an tâm khi lựa chọn sản phẩm và nhãn hiệu của doanh nghiệp.
Vì vậy khi quyết định tung ra thị trường một loại sản phẩm nào đó thì các doanh nghiệp cần chú ý đến việc tạo ra bao bì như thế nào cho phù hợp với sản phẩm và làm toát lên ý nghĩa của sản phẩm thông qua bao bì đó.
Do đó các doanh nghiệp không ngừng nghiên cứu để tạo ra các loại bao bì mới cho phù hợp với sản phẩm , trước đây, một mẫu bao bì có thể đứng trên thị trường 15 lăm năm rồi mới cần cải tiến nhưng trong môi trường đổi mới ngày nay sự thay đổi là rất nhanh chóng, đa số các doanh nghiệp phải xem xét lại bao bì của mình sau 2 hoặc 3 năm nếu không baobì bên ngoài của sản phẩm sẽ không còn được sự ưu ái của khách hàng nữa vì nó quá lỗi thời .
Tóm lại, để các doanh nghiệp có thể tạo chỗ đứng cho mình trên thị trường thì cần tạo ra được những sản phẩm tốt với mẫu mã đẹp mới có thể thoã mãn được nhu cầu của người têu dùng, được người tiêu dùng tin tưởng và tiều dùng .
Như vậy, qua đây chúng ta có thể thấy được sự quan trọng không thể thiếu của bao bì, thông qua bao bì các doanh nghiệp có thể quảng bá được chất lượng của sản phẩm và hình ảnh của doanh nghiệp mình.


Tải xuống tài liệu học tập PDF miễn phí

[sociallocker id=”19555″] Tải Xuống Tại Đây [/sociallocker]

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here