5 bài văn mẫu Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

0
830
Thơ Hàn Mặc Tử là thơ trữ tình hướng nội
QUẢNG CÁO
Vài Phút Quảng Cáo Sản Phẩm


5 bài văn mẫu Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

Mọi ý kiến đóng góp xin gửi vào hòm thư: [email protected]

Tổng hợp các bài văn mẫu lớp 11 hiện có của Hỗ Trợ Ôn Tập: Văn mẫu hay nhất lớp 11

Ngoài ra các bạn có thể xem các tài liệu lớp 11 tại đây: Tài Liệu Lớp 11

Bài liên quan: Văn mẫu: Viết bài làm văn số 6: Nghị luận xã hội

Đề bài: Phân tích bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử

Dàn ý mẫu

I. Xuất xứ
Đây thôn Vĩ Dạ được rút ra từ tập Thơ điên. Khi hai người cùng ở Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử đã từng yêu thầm Hoàng Thị Kim Cúc. Khi về Huế, Hoàng Cúc nghe tin Hàn Mặc Tử bệnh bèn gởi vào tặng Hàn Mặc Tử tấm bưu ảnh phong cảnh và lời chúc sớm lành bệnh. Từ đó, đã gợi cho ông những kỉ niệm một thời từng sống ở Huế và sáng tác bài thơ này.

Quảng Cáo

II. Chủ đề
Từ những kỉ niệm về Huế, nhà thơ đã khắc họa nên bức tranh tuyệt về cảnh vật, con người xứ Huế. Đồng thời, mượn câu chuyện tình đơn phương của mình để kín đáo gởi gắm tình yêu quê hương xứ sở.

III. Phân tích
1. Khổ 1: Bức tranh tuyệt đẹp về cảnh vật, con người xứ Huế.
– Bức tranh được hiện lên qua lời mời trong đó hàm chứa sự trách móc mà thân thiết:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
– Cảnh vật hiện lên qua vài nét phác họa nhẹ nhàng, duyên dáng, đầy ấn tượng của màu xanh như ngọc của ánh sáng tinh khôi buổi ban mai.
– Cuối cùng là nét chấm phá độc đáo tương phản giữa cái vuông vức của khuôn mặt chữ điền với chiếc lá trúc che ngang, gợi lên nét tinh nghịch mà dịu dàng, dễ thương vốn dĩ ở thôn quê.
2. Khổ 2: Cảnh buồn qua cái nhìn đầy nội tâm.
– Cảnh đẹp và thơ mộng, nhưng lay lắt buồn bã trong cảm giác chia lìa bằng hình thức thơ độc đáo: Gió theo lối gió / mây đường mây. Dòng sông như tấm gương ghi nhận hình ảnh chia lìa đó, nên buồn thiu, hoa bắp cúng lay lắt buồ thiu, chia sẻ với tâm trạng nhà thơ.
– Trăng chiếm một dung lượng khá lớn trong thơ Hàn Mặc Tử và ánh trăng thật kì lạ, khác thường. Ta từng gặp trong thơ của ông, hình ảnh:
Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi
(Bẽn lẽn)
– Câu phiếm định: “thuyền ai?”, rồi lại “bến sông trăng”. Quả thật, đúng như Hoài Thanh viết về Hàn Mặc Tử, trong “Thi nhân Việt Nam” : “Vườn thơ của người rộng rinh không bờ bến, càng đi xa càng ớn lạnh”.
3. Khổ cuối: Cảnh vật,con người đều chìm sâu vào mộng ảo.
– Cõi lòng nhà thơ dường như chìm vào mộng tưởng (mơ khách đường xa). Bệnh tật cũng đã khiến nhà thơ rơi vào trạng thái buồn đau ảo giác (nhìn không ra, mờ nhân ảnh). Bởi vậy, con người cảnh vật tất cả đều nhòa mờ trong cô đơn, ngậm ngùi.
Trong cô đơn, ngậm ngùi, trong mộng ảo đau thương, nhưng lòng nhà tha vẫn cứ âm thầm muôn gởi đến con người, cuộc đời một thông điệp, nó như lời trần tình tội nghiệp:
Ai biết tình ai có đậm đà?
– Ta chưa thể quyết rằng cậu thơ ấy thể hiện tình yêu nước của Hàn Mặc Tử đến mức nào. Thế nhưng, chắc chắn rằng Hàn Mặc Tử rất yêu cuộc đời, rất yêu quê hương xứ sở. Ta cũng không ngờ trong tập Thơ Điên lại có những vần thơ đậm đà, chan chứa tình quê đến thế.

IV. Đúc kết
– Hàn Mặc Tử đã ra đi khi hãy còn quá trẻ. Thế nhưng dâu ấn thơ Hàn Mặc Tử là dấu ấn của trái tim nồng nàn, cuồng say, khát khao yêu và sống.
– Hàn Mặc Tử trong đời thơ của mình đã để lại cho đời những tác phẩm thơ mà ta không dễ gì hiểu được vì sự kì dị và tính siêu thực của nó. Thế nhưng Đây thôn Vĩ Dạ vừa siêu thực lại vừa gần gũi thông qua bức tranh cảnh vật, con người xứ Huế.
– Hàn Mặc Tử không sinh ra ở Huế. Thi nhân đến rồi lại đi, mang theo một bóng hình, một kỉ niệm dẹp khó phôi pha.
– Cũng như các bài thơ trữ tình khác, mạch cảm xúc bao giờ cũng thuộc về chủ thể trữ tình. Riêng Hàn Mặc Tử, mầm li biệt dường như là một ám ảnh khôn nguôi trong thơ ông. Phải chăng vì căn bệnh ngặt nghèo nên tất cả như phân chia thành hai vùng sáng — tối, đôi mảnh tâm trạng nhưng đều đựng sự chi phối của một dự cảm, một thực tiễn mất mát – chia lìa. Có lẽ “Đây thôn Vĩ Dạ” cũng không phải là ngoại lệ?

Bài văn mẫu 1

Có một thi sĩ Việt mà đến hai thành phố lấy tên ông đặt cho những con đường, đó là Hàn Mặc Tử. Ông là một hiện tượng kì lạ bậc nhất của phong trào thơ mới, được Chế Lan Viên nhận xét: “Trước không có ai, sau không có ai Hàn Mặc Tử như ngôi sao trổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”. Nhắc đến Hàn Mặc Tử người ta không quên hình ảnh tươi đẹp của thiên nhiên và con người xứ Huế mộng mơ qua bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”. Đó là bức tranh tuyệt đẹp hài hòa giữa thiên nhiên và con người, giữa nét thực và hư mộng cuộc đời, cũng là tiếng lòng yêu tha thiết cuộc sống của thi sĩ.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được sáng tác năm 1938 lúc đầu có tên “Ở đây thôn Vĩ Dạ” sau được đổi lại. Tác phẩm được in trong tập “Thơ điên” (sau đổi thành “Đau thương”). “Đây thôn Vĩ Dạ” được gợi nguồn cảm hứng từ mối tình đơn phương của nhà thơ với một người con gái xứ Huế mộng mơ là Kim Cúc. Đó là con gái của viên chức cấp cao, thiếu nữ mang trong mình nét đẹp dịu dàng, duyên dáng giữ nét chân quê. Hàn Mặc Tử yêu người con gái thầm kín, chỉ dám đứng nhìn từ xa. Mối chân tình ấy được nhà thơ ấp ủ gửi vào tập “Gái quê”. Sau đó Hoàng Cúc theo cha về thôn Vĩ Dạ ở Huế nên ông buồn tủi, đau đớn lại mang trong mình căn bệnh phong khiến nỗi đau ấy càng da diết. Bạn của Hàn Mặc Tử là Hoàng Tùng Ngâm (anh họ Hoàng Cúc) biết được nỗi tâm tình đó nên đã viết thư gửi ra Huế cho Cúc khuyên nàng viết thư thăm hỏi, động viên một tâm hồn bất hạnh. “Thay vì viết thư thăm, tôi gửi bức ảnh phong cảnh vừa bằng cái danh thiếp. Trong ảnh có mây, có nước, có cô gái chèo đò với chiếc đò ngang, có mấy khóm tre, có cả ánh trắng hay ánh mặt trời chiếu xuống nước. Tôi viết sau tấm ảnh mấy lời hỏi thăm Tử rồi nhờ Ngâm trao lại. Sau một thời gian, tôi nhận được bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” và một bài thơ nữa do Ngâm gửi về”. Chính tấm bưu ảnh trực tiếp sự khơi gợi cảm xúc cùng với mối tình thầm kín của Hàn Mặc Tử đã viết nên một thi phẩm giàu cảm xúc, giàu hình ảnh mộng mơ và thẫm đẫm nỗi buồn man mác trong tâm hồn thi nhân.
Thôn Vĩ Dạ là một thôn nhỏ nằm bên bờ sông Hương xứ Huế. Nơi đây là một khu nhà vườn tuyệt mĩ có cây cảnh, cây ăn quả rất nổi tiếng trở thành nguồn cảm hứng sáng tác cho các thi nhân, tiêu biểu là câu thơ của thi sĩ Bích Khê: “Vĩ Dạ thôn! Vĩ Dạ thôn/ Biếc tre cầu trúc không buồn mà say”. Hay câu thơ tả vẻ đẹp thần tiên Cồn Hến Vĩ Dạ: “Ti trúc mê li xuân dưới nguyệt/ Cỏ hoa vờ vật mộng trong hương…”
Mở đầu bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là câu thơ mang hình thức câu hỏi tu từ với nhiều sắc thái, ý ngĩa khác nhau: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Liệu có phải đây là lời trách móc nhẹ nhàng cũng là lời mời tha thiết về thăm thôn Vĩ của cô gái? Hay là lời tự trách của Mặc Tử sao không về chơi thôn Vĩ, cụm từ “về chơi” thật chân tình, chân thành và rất gần gũi, thân thương. Câu thơ mở đầu của Hàn Mặc Tử rất đặc biệt ông biết cách đặt thanh bằng vào tiếng thứ ba “không” và nhất là sự táo bạo phá luật, thất lệ ở tiếng thứ tư “về” đặt một thanh bằng vì theo như thể thơ thất ngôn tứ tuyệt nó phải là một thanh trắc vì theo lệ “Nhị tứ lục phân minh”. Nếu câu thơ mở đầu là “Sao anh không ghé chơi thôn Vĩ?” hay câu “Thôn Vĩ sao anh không về chơi?” thì nó lại mang một ý thơ khác không còn là cái tôi đặc sắc riêng của Hàn Mặc Tử. Ông giống như Thôi Hiệu phá cách trong câu thơ “Tích nhân dĩ thừa Hoàng hạc khứ”. Nhờ thể bằng ở tiếng thứ nhất, thứ hai và thứ sáu tao đà cho một loạt thanh bằng tiếp theo trước khi kết thúc bởi thanh trắc vút cao ở chữ “Vĩ” thật tuyệt sắc tuyệt mĩ. Câu thơ gợi lại cho ta nhiều suy ngẫm, trăn trở về một hồn thơ “Tài hoa bạc mệnh”.
Mở ra đằng sau câu hỏi ấy là bức tranh tả cảnh sắc thôn Vĩ trong nắng sớm bình minh: “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên/ Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Ấn tượng độc đáo là nắng hàng cau, trong vườn cau là loài cây cao nhất, loài cây được đón ánh nắng bình minh đầu tiên. Cụm từ “nắng mới” dùng để chỉ ánh ánh nắng tinh khôi buổi sáng, từ mới tô đậm sự trong trẻo, tinh khiết. Vẫn là ánh nắng ngày nào nhưng trong con mắt của thi sĩ nó thật đẹp thật chan hòa, ấm áp biết bao. “Vườn ai” gợi cảm giác mơ mồ, bất định với cách sử dụng đại từ phiếm chỉ “ai” gây tò mò với vẻ đẹp bí ẩn không thể sở hữu. Tính từ “mướt” chỉ màu xanh non tơ, mỡ màng của cây lá tràn đầy sức sống với sắc tình xuân được so sánh với màu xanh của ngọc_một màu xanh dịu nhẹ có sức hút kì lạ. Dưới cái nhìn của thi nhân khu vườn sáng sớm mang vẻ đẹp lung linh, huyền ảo khi buổi đêm được tắm sương hôm, sáng đến lại được ngập tràn trong nắng mới. Đó là một vẻ đẹp của thanh tú, thuần khiết của một vùng quê yên ả khiến cho nhà thơ ngạc nhiên, trầm trồ trong hạnh phúc.
Trên nền cảnh thiên nhiên con người bỗng được hiện lên: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Mặt chữ điền ở đây là một gương mặt cụ thể của một người con gái mang vẻ đẹp duyên dáng e lệ đằng sau lá trúc hay đó là sự cách điệu hóa của nhà thơ để chỉ vẻ đẹp tâm hồn của con người xứ Huế chịu thương chịu khó, ngay thẳng, kín đáo và phúc hậu? Dù hiểu theo cách nào thì ta cũng có thể thấy được vẻ đẹp của con người hiện lên sau câu thơ. Đó là hình ảnh hư hư thực thực mang lại cảm giác về cái đẹp mộng mơ. Hơn một lần thi sĩ đã gợi nhắc hình ảnh người con gái và trúc trong thơ: “Thầm nghĩ với ai ngồi dưới trúc/ Nghe ra ý nhị và ngây thơ”. Như vậy với bút pháp ước lệ tượng trưng thi nhân đã tạo nên bức tranh tuyệt mĩ kết hợp hài hòa vẻ đẹp thiên nhiên buổi sớm và sự duyên dáng, kiều diễm của con người, cho thấy tâm hồn yêu đời, yêu thiên nhiên sâu sắc của con người bị hành hạ đau đớn đến quằn quại vì bệnh tật.
Tưởng chừng như mạch thơ bị đứt đoạn, nhà thơ đã chuyển cảnh đột ngột từ bình minh sang đêm trăng thơ mộng. Đó là một nét độc đáo trong tư duy thơ của Hàn Mặc Tử, bên ngoài có vẻ rời rạc nhưng ẩn sâu bên trong là sự logic của mạch cảm xúc. Nhà thơ đang mang trong mình tâm trạng háo hức, mong chờ được về chơi thôn Vĩ thì lại chuyển sang buồn tủi, cô đơn như tỉnh mộng trở về với thực tại khắc nghiệt bởi mối nhân duyên ấy bị ngăn cách, cản trở do căn bệnh nan ý lúc bấy giờ. Những hình ảnh thiên nhiên cũng nhuốm màu chia li, buồn tủi của nhà thơ:
“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”.
Đáng lẽ mây và gió là là một cặp song hành với nhau, gió thổi mây bay nhưng ở đây Hàn Mặc Tử lại nhìn thấy nó li biệt gió lối gió, mây đường mây tạo thành nghệ thuật tiểu đối cùng với cách ngắt nhịp 4/3 gợi sự ngăn cách đôi ngả. Cái nhìn và sự quan sát của nhà thơ vận động từ cao xuống thấp, từ xa đến gần. Thi nhân lia ống kính tâm hồn từ cảnh vật trên trời xuống dòng nước bên dưới đang chảy chầm chậm, lững lờ. Hình ảnh hoa bắp lay nhẹ, khẽ khàng để hô ứng với nước. Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa để làm cho dòng nước cũng biết buồn thiu. Ở đây có bút pháp tả cảnh ngụ tình, Hàn Mặc tử tả cái buồn hiu quạnh của cảnh vật để gợi đến tâm trạng buồn tủi, cô đơn của bản thân, chẳng tự nhiên mà dòng nước có thể buồn mà bởi cái nhìn buồn rầu, ảm đạm của nhà thơ mà trở nên như vậy. Đúng như Nguyễn Du đã từng nói: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Như vậy hai câu thơ đặc tả hình ảnh thiên nhiên chia đôi, rời rạc để gợi tả hoàn cảnh, tâm trạng thi nhân.
Mạch cảm xúc lại bị chuyển khi từ một dòng nước buồn thiu giờ đây lại trở thành một dòng sông tràn ngập ánh trăng:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Trăng, gió, mây là nguồn cảm hứng sáng tác của các thi nhân bao đời như bài thơ “Buồn trăng” của Xuân Diệu có viết: “Gió sáng bay về, thi sĩ nhớ/ Thương ai không biết đứng buồn trăng/ Huy hoàng trăng rộng nguy nga gió/Xanh biếc trời cao, bạc đất bằng”.Trong thơ Hàn ta thấy ông luôn bầu bạn với ánh trăng, trăng là tri âm tri kỉ là nơi trú ngụ linh hồn cuối cùng của nhà thơ để trốn tránh thực tại bệnh tật. Trang thơ ông có biết bao hình ảnh ánh trăng tuyệt mĩ, bất thường, bất hủ: “Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu/ Đợi gió đông về để lả lơi” hay “Trăng ngậm đầy sông chảy lai láng”, ở trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” đó cũng là một sông trăng có “thuyền ai” đậu trên đó, có ánh trăng tan chảy làm cho dòng nước ngập tràn trăng đêm lung linh, mờ ảo. Cái lạ của câu thơ không chỉ vì đây là một câu thơ siêu thực, lạ vì siêu thực một cách rất hiện thực dưới sự đặc tả của Mặc Tử. Câu hỏi tu từ trong hai câu thơ mang tâm trạng băn khoăn của tác giả. Từ “kịp”cho thấy cuộc chạy đua của người bệnh với thời gian cuộc đời, “tối nay” là một đêm sao ngắn ngủi thế. Ta cảm thấy trong hồn thơ Hàn luôn mang tâm trạng mặc cảm khác với quan niệm về cái chết của Xuân Diệu. Ông hoàng thơ tình luôn nhìn thấy cái chết ở phía cuối con đường nên ông càng phải tranh thủ sống có ích, có nghĩa từng ngày tối đa với hạnh phúc, còn thi sĩ Hàn_con người bất hạnh mang trong mình căn bệnh phong đáng sợ luôn nhìn thấy cái chết cận kề, đối với ông chỉ cần được sống thôi là hạnh phúc. Nếu thuyền để chở người, chở đồ thì với nhà thơ là chở trăng_hiện tượng tự nhiên cao vời vợi ở trên trời. Đó là nét mờ ảo xen lẫn hiện thực cho thấy sự khắc khoải tuyệt vọng của nhà thơ gợi thương cảm, xót xa cho số phận thi nhân tài hoa tài tử mà lại gặp phải bi kịch cuộc đời. Tử càng điên cuồng yêu đời bao nhiêu thì càng bị hành hạ đau đớn đến quằn quại bấy nhiêu bởi bệnh tật. Đúng như L.Tolstoi đã từng nói: “Khó khăn hơn cả là yêu cuộc sống với những nỗi đau khổ của mình”.
Chất thơ của Hàn Mặc Tử luôn được đan xen hài hòa giữa chất hiện thực và cõi ảo mộng. Hiện thực khắc nghiệt quá nên nhà thơ tìm về với vẻ đẹp của cõi mộng để an ủi lòng mình nhưng mộng dù có dài lâu đến mấy thì cũng phải tỉnh để rồi nhà thơ rơi vào ảo ảnh thực tại:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Mơ là trạng thái vô thức khi con người ta chìm đắm trong cõi mộng, điệp từ “khách đường xa” được lặp lại hai lần mang hai trạng thái cảm xúc. Lần đầu là khát vọng mơ gặp khách đường xa, lần sau là thực tại càng muốn mơ thấy người khách thì lại thấy đường càng xa. Tác giả mơ về bóng giai nhân trong ảo ảnh. Không thể thoát ra khỏi cõi mộng tác giả đem về hiện tại với hình ảnh hư thực “Áo em trắng quá nhìn không ra” đó là áo em với một màu trắng tinh khôi, tinh khiết, nhà thơ cực tả sắc trắng một cách kì lạ, bất ngờ nên khiến cho “em” chìm vào cõi ảo. Câu thơ thứ ba xuất hiện làm cho lớp nghĩa câu hai càng rõ nét. Thời tiết ở Huế nắng nhiều, mưa nhiều và sương cũng nhiều. Sương khói làm mờ đi hình bóng của “em”, lại cộng thêm sắc trắng của áo khiến cho bóng giai nhân vừa gần vừa xa, vừa thực vừa hư. Đây là ảo giác xa rời với hiện thực. Dường như điều đó càng làm cho tâm trạng thi nhân thêm khắc khoải được thể hiện qua sự lặp lại của đại từ phiếm chỉ ai: “Ai biết… ai có…” ở câu cuối nhấn mạnh tâm trạng bâng khuâng, xót xa của một tâm hồn khao khát được sống được yêu và yêu say đắm với người con gái xứ Huế mang tên một loài hoa. Câu thơ hàm chứa hai ý nghĩa đối lập nhau: Trước hết làm sao để biết được tình cảm của người xứ Huế nơi xa có đậm đà không hay như là sương khói mù mịt rồi tan đi. Thứ hai làm sao để cô gái ấy biết được tình cảm nhớ thương da diết của nhà thơ dành cho nàng. Câu hỏi thể hiện nỗi cô đơn, trống vắng, đau đớn của một tâm hồn thơ tài năng mà hoàn cảnh, số phận nhuốm màu bi thương.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” với bút pháp nghệ thuật ước lệ tượng trưng, tả cảnh ngụ tình cùng với ngôn từ trong sáng được chắt lọc, hình ảnh thơ đặc sắc và lối sử dụng điệp từ đã thể hiện được tiếng lòng của nhà thơ trữ tình mới lạ. Ông xứng đáng là một thiên tài trác tuyệt nổi bật trong những nhà thơ mới với hồn thơ đau thương của con người bệnh tật nhưng vẫn ham sống mãnh liệt tạo nên một hồn thơ lạ trong nền văn học Việt Nam đúng như ý thơ của Nguyễn Viết Lãm dành cho thi sĩ Hàn: “Tử thân yêu, hồn thơ anh chỉ một/ Hành tinh chật rồi không chứa nổi hai đâu”

Bài văn mẫu 2

Hàn Mặc Tử một nhà thơ tài năng, một diện mạo thơ bí ẩn, phức tạp bậc nhất trong thơ ca Việt Nam. Thơ ông vừa có sự trong trẻo, tinh khiết vừa có cái ma quái, bí ẩn, chính những yếu tố đó đã làm nên sự hấp dẫn trong thơ Hàn Mặc Tử. Thơ điên (sau đổi thành Đau thương) là những nét vẽ cụ thể của phong cách thơ ấy. Có thể nói bài Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ trong trẻo, tươi sáng nhất trong tập thơ này của ông.

Đây thôn Vĩ Dạ được sáng tác năm 1938. Tác phẩm được chia làm ba phần tương ứng với ba khổ, khổ đầu miêu tả khung cảnh thôn Vĩ tươi sáng, đẹp đẽ trong nắng sớm; khổ hai là khung cảnh sông nước trong đêm trăng huyền ảo; khổ cuối là hình bóng của người lữ khách trong chốn sương khói mờ ảo, huyền bí.
Mở đầu bài thơ là câu hỏi thật tha thiết mà cũng đầy trìu mến:
Sao anh không về chơi thông Vĩ?
Câu thơ có bảy chữ thì có đến sáu chữ vần bằng, gợi nên cái êm ái, dịu dàng đậm chất của âm điệu xứ Huế. Vậy chủ thể của câu hỏi này là ai? Là Hoàng Kim Cúc, người con gái mà Hàn Mặc Tử thầm yêu, giọng điệu khi ấy có phần trách móc, hờn dỗi, đồng thời cũng là lời mời mọc hết sức duyên dáng. Nhưng đây cũng có thể chính là tác giả đã phân thân với hàm ý tự trách mình sao không về. Không về bởi sự cách trở, bởi ông nhận ra rằng hiện tại hay tương lai ông cũng không thể trở về với nơi ông gắn bó, coi như quê hương của mình được nữa. Để rồi ba câu thơ tiếp theo khung cảnh thôn Vĩ hiện lên vô cùng đẹp đẽ, lung linh trong buổi nắng sớm mai:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Điều ấn tượng đầu tiên chính là vẻ đẹp của nắng, nắng được lặp lại hai lần trong một câu thơ, cho ta ấn tượng về thứ ánh sáng trong trẻo, tinh khôi tràn ngập khắp không gian. Mà hơn nữa lại là nắng hàng cau, thứ nắng thật thân thuộc, gần gũi đối với người dân Việt Nam. Hàng cau vươn mình đón nguồn ánh sáng của thiên nhiên, đón ánh nắng tinh khiết đầu tiên của một ngày. Dưới ánh nắng hàng cau là cả một khung cảnh tuyệt mĩ hiện ra trước mắt, màu xanh ngọc của khu vườn phủ kín cả không gian. Từng câu, từng chữ Hàn Mặc Tử đã giúp người đọc hình dung vẻ đẹp của khu vườn ấy. Chữ “mướt” gợi nên sự non tơ, mỡ màng của cây cối khi được đắm mình trong hơi sương, trong ánh nắng buổi sáng. Hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” đem đến cảm giác tươi mát, trong trẻo, thanh mát cho quang cảnh. Để hoàn thiện bức tranh thiên nhiên, con người xuất hiện ở câu thơ cuối cùng của khổ. Thấp thoáng sau những lá trúc mềm mại là gương mặt chữ điền. Phải chăng đó là khuôn mặt của người con gái xứ Huế, khuôn mặt ấy mang trong mình nét duyên dáng, đẹp đẽ về phẩm chất. Thiên nhiên và con ngươi hòa quyện hài hòa tạo nên khung cảnh đẹp đẽ, đồng thời làm bừng lên khát vọng trở về thôn Vĩ của Hàn Mặc Tử.
Nét bút của Hàn Mặc Tử tiếp tục đưa người đọc đến với một vẻ đẹp khác của xứ Huế, đó là vẻ đẹp trong một đêm trăng mơ màng, huyền diệu:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Khung cảnh mây trời chia phôi, mỗi sự vật đều tồn tại một cách biệt lập. Gió đi theo đường gió, mây đi theo đường mây, nhịp thơ 4/3 kết hợp với dấu phẩy về mặt hình thức đã chia rẽ, tách biệt một cách tuyệt đối các sự vật, hiện tượng. Nhìn trên bề mặt là sự phi lí, không hợp với logic tự nhiên, nhưng với logic tâm trạng nhà thơ lại hoàn toàn có lí. Hướng mắt về phía trước là khung cảnh sông nước “buồn thiu” lặng lỡ trôi, cuộc sống tẻ nhạt, hiu quạnh. Đó không chỉ là cái buồn của dòng sông,mà còn là cái buồn của lòng người, của tâm trạng. Dường như mọi sự vật đều rời bỏ thi nhân, ông tìm đến với trăng, tìm đến với chỗ bám víu cuối cùng mong có được sự chia sẻ:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
Trong thơ Hàn Mặc Tử trăng là người bạn, tri âm tri kỉ của ông. Bởi vậy, khi tất cả mọi thứ đều rời bỏ, ông tìm đến chỗ bám víu cuối cùng là ánh trăng, Trăng xuất diện thật diễm lệ, thật lớn, đó là cả một bến sông trăng, thuyền trăng. Ở đây trăng chính là hiện thân của cái đẹp trần thế, của cuộc sống ngoài kia mà Hà Mặc Tử khao khát có được. Câu hỏi tu từ : “Có chở trăng về kịp tối nay” ẩn chứa sự thảng thốt, lo âu về thời gian. Một đêm tưởng dài mà lại rất ngắn, liệu có còn đủ cho quỹ để tận hưởng cuộc sống này hay không. Nỗi niềm lo lắng ấy cho thấy tình yêu cuộc sống đến mãnh liệt, cháy bỏng của Hàn Mặc Tử.
Khổ thơ cuối cùng, con người dường như không còn ở cõi thực, mà đã phiêu diêu đến cõi hư ảo, huyền bí: “Mơ khách đường xa khách đường xa/ Áo em trắng quá nhìn không ra/ Ở đây sương khói mờ nhân ảnh/ Ai biết tình ai có đậm đà”. Hình bóng giai nhân hiện hữu nhưng chỉ là trong giấc mơ, không thể nắm bắt, không thể níu kéo. Sắc trắng được Hàn Mặc Tử cực tả “trắng quá”, khiến cho người con gái mất hết đường nét, chỉ còn là một khoảng trống hư ảo, một sự hẫng hụt lớn để lại nơi lòng thi nhân. Ông tìm ra bên ngoài để bớt nỗi cô đơn, nhưng nhận lại chỉ toàn hẫng hụt, đành quay bước về thế giới ở đây. Nhưng ở đây sướng khói mờ mịt, “nhân ảnh” hư hao, thiếu vắng tình người, khao khát tìm hơi ấm, tìm sự sẻ chia bằng sợi dây tình cảm nhưng tất cả đều bị cắt đứt một cách vô tình. Câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà” chứa hai đại từ phiếm chỉ, đem đến các cách hiểu khác nhau: ai có thể hiểu là cô gái mà Hàn Mặc Tử yêu liệu có biết tình cảm Hàn Mặc Tử dành cho không; ai lại cũng có thể hiểu là người trong này có biết được người ngoài kia có dành tình cảm đậm đà cho mình hay không. Nỗi cô đơn, trống vắng làm dấy lên nỗi khao khát yêu đương khắc khoải, thiết tha trong lòng Hàn Mặc Tử. Đối với ông, cô gái ấy không chỉ là người con gái cụ thể mà đó còn là cuộc sống, cuộc đời ông luôn khao khát được hòa nhập. Bài thơ đã cho thấy một Hàn Mặc Tử yêu người, yêu đời đến tha thiết, cháy bỏng.

Bài thơ sử dụng linh hoạt các hình ảnh so sánh, ngôn ngữ cực tả vẽ lên khung cảnh thôn Vĩ vừa đẹp đẽ, tinh khôi, vừa huyền diệu thần bí. Nhịp điệu thay đổi linh hoạt khắc họa tâm trạng của chủ thể trữ tình. Hình ảnh thơ độc đáo, gợi cảm, giàu ý nghĩa biểu trưng.
Với bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử đã vẽ nên bức tranh phong cảnh xứ Huế vô cùng lung linh, đẹp đẽ, với những khung cảnh khác nhau. Đằng sau bức tranh đó còn là nỗi niềm yêu cuộc sống tha thiết, khát khao giao cảm, hòa nhập mãnh liệt. Đồng thời ta cũng cảm nhận được nỗi cô đơn, sự bất hạnh của con người tài hoa này.

Bài văn mẫu 3

Nhắc tới Hàn Mặc Tử không thể không nhắc tới bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”. “Đây thôn Vĩ Dạ” đã gắn chặt với thi sĩ họ Hàn như hình với bóng, vì đây là bài thơ vừa thể hiện cái tài, lại vừa thể hiện cái tình; cái tâm của Hàn Mặc Tử, chứ đây ” chỉ thể hiện tình yêu đối với một người con gái xứ Huế” như bạn nào đó đã nhận xét.

Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ hoài niệm. Theo tư liệu về Hàn Mặc Tử, khi còn làm việc ở Sở Đạc điền Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử đã đem lòng yêu Hoàng Thị Kim Cúc – con gái ông chủ sở Đạc điền Quy Nhơn, quê ở thôn Vĩ, xứ Huế. Tất cả tình cảm của mình Hàn Mặc Tử gửi gắm vào tập Gái quê. Khi Hoàng Cúc theo cha về nghỉ hưu ở Huế — Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử xem như nàng đã đi lấy chồng.
Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ
Em lấy chồng rồi, hết ước mơ
Tôi sẽ đi tim mỏm đá trắng,
Ngồi lên để thả cái hồn thơ.
Hàn Mặc Tử khi lâm bệnh hủi năm 1936. Năm 1939, Hàn nhận được tấm bưu ảnh của Kim Cúc gửi tặng, đó là một bức ảnh chụp phong cảnh xứ Huế, có sông nước, có thuyền, có bến, có trăng, cùng những hàng cau cao vút, kèm theo dòng chữ của Hoàng Cúc để an ủi nhà thơ. Bức bưu thiếp đã đánh thức cảm xúc của thi sĩ, nên có bài thơ tuyệt bút này.
Đây thôn Vĩ Dạ gồm 12 câu thất ngôn, chia làm 3 khổ.
Khổ thứ nhất mở đầu bằng một câu hỏi tu từ. Câu thơ thoáng như một lời trách móc nhẹ nhàng có pha chút tiếc nuối của ai đó, nhưng đằng sau đó là lời chào mời tha thiết khách đến thăm để được thưởng thức cảnh đẹp của “thôn Vĩ”.
Về thôn Vĩ để được “nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. Nhà thơ nói đến cây cau trước tiên vì cau là loài cây thanh nhã, xinh xắn với thân hình thẳng tắp, tán lá xanh tươi, gợi sự ngay thẳng thủy chung. Hình ảnh hàng cau ở đây còn có một chi tiết khó quên, ấy là “Nắng hàng cau, nắng mới lèn”. Điệp từ “nắng” gợi cho ta ánh nắng ban mai, biểu tượng cho sức sống, niềm vui đang lan tỏa tràn đầy mặt đất. Trong ánh nắng ban mai, những thân cau còn đọng sương đêm sáng lên lấp loáng như đang vươn lên hút lấy những ánh vàng rực rỡ.
Cảnh đẹp, thu hút sự chú ý của tác giả. Câu thơ thứ ba cất lên như một tiếng reo thích thú biểu hiện sự ngạc nhiên, ngưỡng mộ. Khung cảnh Vĩ Dạ đẹp như một bức tranh: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Vườn Vĩ Dạ với những cây trái được sự chăm sóc bởi bàn tay khéo léo, lại được tắm gội mưa gió thường xuyên, nên mượt mà và dưới ánh nắng ban mai lấp lánh như nhũng viên ngọc bích. Hình ảnh so sánh của tác giả trong câu thơ vừa chính xác, vừa gợi cảm. Có thể nói, tả vườn của Hàn Mặc Tử đã đạt đến độ tinh tế của một họa sĩ tài hoa.
Chỉ bằng vài nét vẽ chấm phá, Hàn Mặc Tử đã phác họa được khung cảnh khu vườn một làng quê xứ Huế vừa quen thuộc, bình dị, vừa thi vị độc đáo. Ngắm vườn xứ Huế trong cái “nắng mới lên” thật thanh thản. Nhung cảnh vật Vĩ Dạ bỗng sinh động hẳn lên, khi bóng dáng con người xuất hiện: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Mặt chữ điền thường gợi về vẻ đẹp phúc hậu, trang trọng, quý phái, còn lá trúc gợi cái dáng vẻ mảnh mai, xinh xắn, thanh tú. Câu thơ ngoài ý nghĩa tả thực: thấp thoáng sau khóm trúc có khuôn mặt rất phúc hậu của ai đó hình như đang dõi theo khách đường xa, còn có ý nghĩa tượng trưng, cách điệu hóa
Cảnh và người tô điểm cho nhau: cảnh xinh xắn, thơ mộng, người phúc hậu quý phái. Tất cả tạo nên một vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng. Nhờ thế câu thơ đã làm bật được cái linh hồn vườn cây xứ Huế mà khổ thơ tập trung biểu hiện.
Tóm lại, bằng những chi tiết rất quen thuộc và bình dị, Hàn Mặc Tử đã khắc họa một bức tranh quê Vĩ Dạ tràn đầy sức sống với vẻ đẹp bất ngờ, có sự hài hòa giữa cảnh và người. Đoạn thơ làm khơi dậy trong tâm hồn người đọc biết bao nỗi niềm quê hương làng mạc Việt Nam.
Khổ thơ thứ hai cho thấy một thế giới khác của Huế: dòng sông Hương và vẻ đẹp êm đềm trầm tư của Vĩ Dạ nói riêng và Huế nói chung.
Về với Vĩ Dạ, về với Huế, với núi Ngự, sông Hương, Hàn Mặc Tử cũng cảm nhận được cái linh hồn, cái nhịp điệu rất Huế ấy. Khung cảnh Huế dưới ngòi bút của Hàn Mặc Tử có sông nước, bờ bãi, có gió, có mây và con thuyền ai đó đậu dưới trăng nơi bến vắng. Tất cả tạo nên một bức tranh êm đềm, thơ mộng.
Gió theo lối gió, đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay.
Hai câu thơ tả cảnh nhưng thấm đẫm tình người. Hai câu thơ gợi cảm giác chia li buồn vắng đến não nề. Phải chăng một mối tình đơn phương, chưa có phút giây gặp gỡ ngọt ngào đã sớm chia li nên cảnh cũng hòa vào lòng người mà sầu tủi, phân li? Bởi đang trong tâm trạng buồn như vậy nên nhìn vào đây cũng thấy buồn. Gió thổi mây bay thường là một chiều, nhưng đây lại đứt gẫy, như là không có sự gặp gỡ. Điệp từ “gió” và “mây” đã diễn ra điều đó. Và ngay đến dòng nước vô tri kia cũng trở nên buồn hiu cùng với hoa bắp hiu hắt khẽ “lay”.
Hai câu thơ không chỉ tả cảnh và tình trong cảnh, mà dường như còn muốn tả cái nhịp điệu của cảnh. Đó là cái nhịp điệu êm đềm, lững lờ, nét trầm tư rất điển hình không nơi nào có được của Huế. Hai câu thơ có cái nhịp khoan thai, chậm rãi cũng dã diễn tả rất thành công cái cảm xúc trên.
Viết về Huế không thể không tả trăng. Trăng dưới ngòi bút của Hàn Mặc Tử huyền ảo, tràn đầy vũ trụ, tạo nên một không khí nửa thực, nửa hư như trong mộng:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Chỉ có trong mộng thì sông mới là sông trăng và thuyền mới chở trăng. “Ở đầy Hàn Mặc Tử là con người có con mắt rất mơ, rất ảo. Nhìn vào sự thật thì sự thật thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại thấy xô sang địa hạc huyền diệu. Lời thơ của Tử thanh tao quá! Ngọt lịm cả người” (Bích Khê).
Trăng là biểu tượng cho cái đẹp của cuộc đời và thiên nhiên. Trăng cũng tượng trưng cho hạnh phúc thanh bình. Vì vậy, hình ảnh thơ của Hàn Mặc Tử đã khơi dậy trong trái tim người đọc một niềm tin, niềm vui, một khát vọng hướng tới cái đẹp hoàn mĩ và thánh thiện. Nhưng lời thơ lại cất lên như một câu hỏi vô vọng. Hai câu thơ sau của khổ thể hiện tâm trạng khát khao gặp gỡ, đồng thời cũng thể hiện nỗi niềm lo âu, phấp phỏng về sự muộn màng, dang dở. Chỉ một chữ “kịp” câu thơ cuối cùng đã nói lên điều đó.
Khổ thơ thứ ba cho thấy vẻ đẹp huyền ảo của xứ Huế và tình người, tình đời thiết tha mà xa xăm vô vọng của tác giả.
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra”
Điệp ngữ “khách đường xa” vừa thể hiện tâm trạng khắc khoải nhớ mong tha thiết vừa diễn tả cái khoảng cách xa vời của mối tình đơn phương vô vọng. Vì vậy, “mơ khách đường xa” tác giả chỉ thấy “áo” nhưng “nhìn không ra”. Cô gái này là ai? Một cô gái Huế nào đó hay chính là cô gái thôn Vĩ chập chờn trong cõi mộng của nhà thơ khiến cho tác giả có cảm giác bâng khuâng hư thực? Chỉ biết đây là một hình ảnh vừa rất đỗi gần gũi thân thiết vừa xa xôi. Gần gũi vì nó đã trở thành một hoài niệm thường trực; xa vời vì khoảng cách thời gian, không gian và làn khói sương của một mối tình chưa có lời ước hẹn. “Áo em trắng quá nhìn không ra” là một câu thơ khá đặc sắc. Màu trắng là màu áo dài của nữ sinh xứ Huế và cũng là màu gợi về sự thanh khiết trắng trong rất phù hợp với cô gái trong mộng tưởng. Cái màu trắng cả không gian, làm nhập nhòa cả thị giác của tác giả. Và “áo trắng quá” lại càng khó nhận ra khi lẫn vào sương khói hư ảo của Huế lắm nắng, nhiều mưa và sương khói của mối tình chưa có ước hẹn.
Vì vậy, tình cảm của người con gái thôn Vĩ hôm nào có bền chặt cho chăng?
“Ai biết tình ai có đậm đà?”.
Trong đau thương tột cùng mà nhà thơ vẫn có những phút giây tâm hồn trong trẻo để hướng về một miền quê thân thiết và một mối tình đầy mộng ảo dể tạo nên một ” viên ngọc thơ tuyệt vời chói lọi nghìn năm” (Chế Lan Viên).

Bài thơ cố nhiên có một xuất xứ, có một nguồn cảm hứng cụ thể, nhưng qua việc phân tích, ta thấy, tác phẩm đã vượt xa ranh giới của những gì cụ thể, đạt tới sự khái quát hóa nghệ thuật cao độ để đến với cuộc đời bao la.
Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử không chỉ là mệt bài thơ thể hiện tình yêu với một người con gái xứ Huế, thậm chí không chỉ dành riêng cho một thôn Vĩ cụ thể mà còn là lời tâm sự thiết tha, là lời trăng trối của thi sĩ Hàn Mặc Tử về tình yêu day dứt và quá đỗi sâu nặng đối với cuộc đời này.

Bài văn mẫu 4

Hàn Mặc Tử viết bài thơ này ở Quy Nhơn, nhân lức nhận được bức bưu ảnh, kèm theo mấy lời hỏi thăm sức khỏe của Hoàng Cúc gửi cho anh.

Bài thơ có ba khổ, mỗi khổ thơ là một bức tranh, nhà thơ Xuân Diệu gọi mỗi cấu trúc ấy là một bài thơ tứ tuyệt.
Mở đầu là câu:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ”
Đây có thể là Hàn Mặc Tử nhắc lại lời thăm hỏi của Hoàng Cúc ghi trong bức bưu ảnh hoặc bức bưu ảnh gợi nhớ những kỉ niệm về thôn Vĩ.
Bốn câu thơ (khổ đầu) có tính chất tạo hình như một bức tranh có ba chiều: chiều rộng, chiều cao, lẫn chiều sầu. Đó là nỗi nhớ giúp tác giả hình dung ra trước mắt mình một cảnh tượng sống động.
Bức tranh thôn Vĩ được phác họa bằng mấy nét xinh xắn.
Ánh nắng ban mai chiếu xuống những hàng cau, “nắng mới lên” đem lại cảm giác trong lành, bình yên; những hàng cau đứng thẳng tắp, hình ảnh rất quen, nét đặc trưng của thôn Vĩ:
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
Những vườn cây trái sum sê, tươi tốt của thôn Vĩ (mướt quá), một màu xanh mà nhà thơ so sánh: “xanh như ngọc”. Trong hồi tưởng của nhà thơ giữa cảnh và người hòa quyện với nhau đưa đến cảm xúc trìu mền, dịu ngọt.
Thấp thoáng đàng sau những khóm trúc có bóng dáng mặt con người dịu dàng, phúc hậu khi ẩn khi hiện:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”.
Bốn câu tiếp theo trong khổ thơ thứ hai, nhà thơ tìm đến dòng kỉ nệm về Huế gắn liền với con sông Hương thơ mộng, êm đềm. Con sông có gió, có mây, có dòng nước, có con thuyền và ánh trăng. Hầu như sóng nước sông Hương rất hiền lành, nước chầm chậm trôi giữa đôi bờ sương khói như mang một nỗi “buồn thiu”.
“Gió theo lôi gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bển sông trăng đó
Có chờ trăng về kịp tối nay?”
Nhịp điệu thơ nhẹ nhàng chậm rãi uyển chuyển, cảnh ở khổ thơ trên tươi sáng, đến khổ thơ này trở nên buồn: gió và mây không đi liền nhau mà gió một lối, mây một đàng gợi lên nỗi buồn xa cách. Dòng nước trôi lững lờ, vắng vẻ “buồn thiu”, hài bên bờ sông Hương đoạn chảy qua thôn Vĩ có những vườn bắp, gió đưa hoa bắp khẽ lay dộng, một khung cảnh vắng lặng và gợi buồn. Đây là hình ảnh thấm “đượm” tâm hồn xao xuyến của nhà thơ.
Hình ảnh con “sông trăng” là một tứ thơ rất mới mẻ. Trăng trên sông Hương thật mơ mộng, “sông trăng”, thuyền “chở trăng” làm cho cảnh trở nên huyền ảo lung linh. Có thể nói chưa có nhà thơ nào tả dòng Hương Giang với nét đẹp hư ảo như Hàn Mặc Tử. Trong nỗi nhớ nhung mơ màng của nhà thơ, thuyền và trăng đã thành những vật thể có linh hồn.
Khổ ba tiếp tục những kỉ niệm về Huế:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khối mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai đậm đà?…
Trong những kỉ niệm về Huế, hình ảnh người thiếu nữ của Huế và cũng là thôn Vĩ — hiện lên đậm nét hơn cả, trở thành điểm sáng của bài thơ. Cô gái Huế của Hàn Mặc Tử có nét hư hư, thực thực, cô gái và nhà thơ có một khoảng cách về không gian, về thời gian, hơn nữ giữa hai người cũng chưa có những hứa hẹn, gắn bó cho nên chỉ là “khách đường xa”. Hình ảnh người thiếu nữ trỏ nên xa vời. Câu thơ trở nên đa nghĩa phủ lên kí ức một lớp sương mờ nên “Áo em trắng quá nhìn không ra”, nhưng trong tâm tưởng nhà thơ dù chỉ là kỉ niệm của một thời, “em” vẫn là hình bóng thân yêu.
Hình ảnh người thân xa cách chìm đi trong “sương khói” của trời đất xứ Huế, kết thúc bài thơ là một câu hỏi:
“Ai biết tình ai có đậm đà?….”
Câu thơ thứ hai chứa đầy tâm trạng. “Ai”, “ai” là anh hay là em, đúng hơn là cả hai người, nhà thơ tự hỏi mình và cũng hỏi “em” về mối tình đơn phương chưa nói lên lời. Nay giữa hai người là màn “sương khói” của không gian và thời gian làm sao biết được mối tình này có đậm đà hay nhạt phai. Có thể hiểu đây là bài thơ hướng nội, ẩn dấu cái sâu xa nhất của tâm hồn thi nhân là tình đời; ta thấy thấp thoáng bóng hình một mối tình dang dở giữa nhà thơ và người con gái thôn Vĩ Dạ. Mối tình đơn phương này qua năm tháng chưa tàn phai. Bởi thế, khi chỉ có tấm bưu thiếp và mấy lời hỏi thăm từ xứ Huế gửi đến đã làm sống dậy trong lòng nhà thơ cả một trời thương nhớ. Có người cho rằng mỗi khổ thơ đều có hai giọng nói. Hai câu trên của một người, hai câu dưới của một người. Thật ra thì khó phân định. Ví dụ câu: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Đây là lời trách móc hay là lời mời hỏi của “thi nhân” hay của “cố nhân” ? Nhưng có điều có thể xác định được đó chính là lời hỏi thăm kia (ở tấm bưu thiếp) đã được Hàn Mặc Tử tiếp nhận một cách đầy tình cảm ngọt ngào. Vì vậy, có thể nói đây là bức tranh tâm trạng. Một mối tình đã gieo vào lòng nhà thơ biết bao nỗi nhớ nhung khắc khoải.
Về nghệ thuật, đây là bài thơ có những nét nghệ thuật độc đáo trong diễn tả, diễn cảm và biểu hiện một tâm trạng đầy xúc động.
Có thể nói bài thơ là những bức tranh đẹp. Bức tranh vườn cây thôn Vĩ, bức tranh sông nước sông Hương hiền hòa, êm dịu, bức tranh tâm trạng có bóng dáng người con gái Huế.
Về thời gian thì khổ một là buổi sáng, khổ hai cảnh ban đêm, khổ ba thì không thể xác định.
Về không gian thì khổ một là vườn cây thôn Vĩ, khổ hai bến sông Hương, có đôi bờ, có thuyền và trăng, nhưng đến khổ thứ ba thi hầu như không có không gian hoặc khó xác định. Nhưng ở đây có thể nhận ra là nhà thơ muốn nói sát hơn về mối tình không trọn vẹn với người thôn Vĩ. Đôi tượng có thể xác định “khách đường xa” là “em”.
Đây không phải là một bức tranh tả cảnh nên nhà thơ không diễn tả theọ một trật tự nào. Vì nó là “bức tranh tâm trạng”, tả cảnh để nói tâm trạng cho nên trật tự của bài thơ là dòng xúc cảm của tác giả, cách sắp xếp đó làm tăng hiệu quả biểu hiện hồn thơ.
Trong bài thơ, tác giả dùng phương pháp láy lại một số từ để biểu cảm:
“Nắng hàng cau, nắng mới lên…
Gió theo lối gió, mây đường mây…
Mơ khách đường xa, khách đường xa…
Ai biết tình ai có đậm đà?
Đây là biện pháp điệp từ, điệp ngữ ta thường gặp trong thơ. Nhưng trong bài thơ này, Hàn Mặc Tử đã sử dụng biện pháp nghệ thuật này có hiệu quả thẩm mĩ cao, vì những từ ngữ đó gây ấn tượng mạnh. Nhất là điệp từ “ai” gợi nhớ bao thân thương trong những câu hò xứ Huế.

Cuộc đời Hàn Mặc Tử là một bi kịch khắc nghiệt nhưng nhà thơ đã sáng tạo cho đời những áng văn chương làm say đắm lòng người. Bài thơ có một cấu trúc độc đáo, lấy cảnh để ngụ tình, tình trang trải dịu buồn khôn khuây.

Bài văn mẫu 5

Khổ thơ đầu trong bài thơ hiện lên hai chi tiết hòa quyện vào nhau đó là nét đẹp của bức tranh phong cảnh và tâm trạng của tác giả. Bức tranh Vĩ Dạ tắm mình trong ánh bình minh toát lên một vẻ đẹp tinh khôi và dịu dàng rất Huế; trong khung cảnh thiên nhiên đó, nhà thơ hoài niệm, thương nhớ, nuối tiếc và có chút bâng khuâng. Tất cả hòa vào nhau khiến cho bức tranh thiên nhiên nhuốm màu hư ảo.

Câu thơ đầu tiên có thể được hiểu theo hai nghĩa khác nhau. Có thể đó là suy nghĩ của tác giả về tình yêu mà cô gái dành cho mình, suy nghĩ đó tạo ra một lời mời thiết tha đối với tác giả (anh hãy về thăm), đồng thời là một sự trách móc, giận hờn (anh còn nhớ hay không). Cũng có thể xem đó là lời tự vấn của tác giả: Sao không về thôn Vĩ?
Dù hiểu theo cách nào thì cũng có thể thấy câu thơ chính là niềm thương nhớ, niềm yêu mến không thể kìm nén của tác giả. Sự không kìm nén đó đã bật lên thành câu hỏi. Ẩn trong câu hỏi thiết tha ấy là một bóng hình tuy ảo ảnh, mong manh mà vô cùng da diết. Ân sâu trong nuối tiếc, hoài niệm là ước muốn được về thăm Vĩ Dạ một lần. Nếu hiểu được cuộc đời của Hàn Mặc Tử thì chúng ta sẽ biết được ước muốn bình thường đó đối với Hàn Mặc Tử lớn lao biết nhường nào. Câu thơ như gợi lên một niềm thương cảm, sầu bi và oán thán cho số phận.
Thôn Vĩ Dạ hiện lên với vẻ đẹp vừa rất thực vừa rất mộng với hàng loạt hình ảnh về nắng, hàng cau, vườn, lá trúc, mặt chữ điền. Ấn tượng sâu sắc nhất là cảnh vườn Vĩ Dạ tắm trong ánh nắng bình minh. Bằng nghệ thuật tăng cấp. Hàn Mặc Tử muốn nhấn mạnh đến hình ảnh nắng: “Nắng hàng cau, nắng mới lên”. Nắng mới lên là nắng ban mai, cái nắng tinh khôi, non tơ, dịu dàng sáng bóng và trong trẻo, lại được tắm mình trong cây lá ướt đẫm sương đệm nên có sự phản chiếu long lanh. Hai từ nắng đặt cạnh nhau tạo cho nắng sự chuyển động trên cây lá. Đó là một cách cảm nhận và miêu tả thật tinh tế của Hàn Mặc Tử. Hình ảnh nắng hàng cau gợi cho chúng ta nhiều nghi vấn. Tại sao trong muôn vàn cây lá trong vườn, tác giả chỉ chọn hàng cau để tả ánh nắng? Phải chăng cau là loài cao nhất trong vườn nên có thể đón ánh nắng đầu tiên của ban mai dịu nhẹ; hay chính là một mối duyên không thành giờ chỉ còn có cau mà thiếu mất trầu? Có thể thấy ngoài vẻ đẹp của ánh bình minh, câu thơ còn chất chứa một nỗi sầu tình duyên của Hàn Mặc Tử.
Chính vì nắng mới lên, cây lá còn ướt đẫm sương đêm nên mới có cảnh Vườn ai mướt quá xanh như ngọc. Câu thơ vừa là một câu hỏi (vườn ai?), vừa là một lời bình phẩm, khen ngợi (mướt quá, xanh như ngọc). Chữ mướt toát lên một vẻ đẹp mượt mà, óng ánh. Khu vườn Vĩ Dạ hiện lên với muôn vàn màu sắc lung linh dưới ánh nắng ban mai. Hình ảnh thơ tuy đơn sơ mà lộng lẫy, bình dị mà thanh tú, dân dã mà cao sang.
Câu thơ thứ ba xuất hiện chữ ai thật đặc biệt. Chữ ai vừa không xác định vừa xác định, vừa hư lại vừa thực, vừa gần gũi lại vừa xa vời. Hàn Mặc Tử đã rất thành công khi hư ảo hóa một khung cảnh rất hiện thực và hiện thực hóa những gì vốn rất hư ảo mà vốn chỉ thấy trong tưởng tượng.
Nổi bật nhất trong câu thơ thứ tư là hình ảnh khuôn mặt chữ điền. Để hiểu được hình ảnh này thật không dễ dàng, bởi có nhiều cách lí giải khác nhau. Tuy nhiên, hình ảnh trên mang nhiều yếu tố cách điệu. Hàn Mặc Tử sử dụng yếu tố cách điệu để diễn tả sự hài hòa trong vẻ đẹp của con người và thiên nhiên. Đó là sự hài hòa của một vẻ đẹp rất Huế với cảnh vật Huế và con người Huế.
Khổ thơ ẩn chứa nhiều tâm trạng và nỗi lòng của Hàn Mặc Tử. Mở đầu và kết thúc bằng hai câu hỏi (Sao anh? Vườn ai?) nhưng không có câu trả lời. Đó là một dấu hỏi lớn trong lòng mà tác giả cũng chưa tìm được lời giải đáp.
Sự mơ hồ, huyền ảo trong cảnh sắc thiên nhiên và lòng người
Bài thơ bắt đầu bằng một ánh nắng ban mai dịu nhẹ nhưng thoắt đã hiện lên đêm trăng huyền ảo trong khổ thơ thứ hai. Màu sắc hư ảo dường như bao trùm trong khổ thơ thứ hai.
Hai câu mỡ đầu của khổ thơ thứ hai vẽ nên loạt hình ảnh nối tiếp nhau (gió theo lối gió, mây đường mây, dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay) như tô đậm thêm nỗi buồn của nhà thơ, một nỗi buồn mênh mang, sâu thẳm của xứ Huế. Lối điệp từ gió và mây không nhằm nhấn mạnh cường độ hoặc sắc thái của gió và mây, mà chính là thể hiện sự tách biệt của gió và mây trong khung cảnh thiên nhiên.
Giá trị của câu thứ hai đặt vào hai chữ buồn thiu đặt giữa câu thơ. Đấy không chỉ là cái buồn cửa lặng lẽ của dòng nước lan tỏa đến cả hoa bắp mà còn là cái buồn của một người mang nhiều tâm sự. Chữ lay đặt trong hoàn cảnh này toát lên một vẻ hiu quạnh và tác động đến mọi cảnh vật chung quanh, khiến tất cả như mang một nỗi buồn man mác.
Hai câu thơ chứa đựng một nỗi buồn bâng khuẫng, man mác, một nỗi buồn thật khó tả và khó gọi tên. Chính nỗi buồn đó đã đưa thi nhân vào một thế giới cùa sự mộng ảo trong hai câu thơ tiếp theo:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Hình ảnh sông trăng và con thuyền chở trăng trên sông thật mơ hồ nhưng cũng thật quyến rũ. Hình ảnh hư và thực đã được Hàn Mặc Tử khắc họa một cách tinh tế, tài hoa. Dòng nước tắm ánh tráng sáng rực bỗng rùng mình hóa thành dòng trăng hay là ánh tráng tan ra và tuôn chảy thành dòng nước? Ắnh tràng thật lung linh, kì ảo. Hình ảnh con thuyền chở ánh trăng lướt nhẹ trên dòng sông trăng để cập bên thời gian cho kịp giờ ân ái là một hình ảnh kì ảo. Những hình ảnh như thế vẫn thường xuyên xuất hiện trong thơ Hàn Mặc Tử. Đó là những hình ảnh thuộc về một thế giới khác, một thế giới rất riêng của Hàn Mặc Tử.
Hai câu thơ làm thành hai câu hỏi: “Thuyền ai đó? Có chở trăng về kịp tối nay? Từ kịp gợi sự khắc khoải, mơ hồ và chờ đợi. Từ tối nay không gợi một thời gian cụ thể nào, nhưng nếu không kịp thì có lẽ không còn một tối nào khác nữa. Câu thơ gợi lên sự tuyệt vọng, đau thương và mất mát. Dường như con người hi vọng kia đang chạy đua với thời gian để giành lấy tình yêu và cuộc sống. Câu thơ làm chúng ta nhớ lại cái gấp gáp, vội vàng của Xuân Diệu trong bài thơ Vội vàng. Nhưng Hàn Mặc Tử trong hoàn cảnh này lại khác. Hàn Mặc Tử không có cái sức sống mãnh liệt, tràn đầy nhiệt huyết như Xuân Diệu: Ông đang phải chạy đua với thời gian vì ông biết sự sống của mình không kéo dài. Biết đâu vào tối mai, vầng trăng kia vụt tắt, con thuyền kia mãi mãi không chở trăng về kịp. Một hình ảnh thơ rất ảo nhưng cũng rất thực. Cái thực chính là hoàn cảnh đau thương của tác giả.
Toàn bộ khung cảnh trong khổ thơ thứ hai là một thế giới ảo. Hồn thi nhân chìm vào cõi mồng lung, ở đó có hẹn hò, có chờ đợi, có phấm phỏng một niềm hi vọng và có cả dự cảm chia lìa, có thất vọng ngay trong hi vọng và có cả niềm đau thương của chính cuộc đời tác giả.
Tâm trạng của tác giả trong khổ thơ thứ ba
Giọng thơ khắc khoải trong khổ thơ thứ hai trở nên gấp gáp, khẩn thiết trong khổ thơ thứ ba. Tác giả dần đối diện với chính mình và với thực tại của một bóng giai nhân chỉ có trong ảo ảnh:
Mơ khách đường xa, khách đường xa.
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Cụm từ khách đường xa được lặp lại hai lần, kết hợp với chữ mơ ở đầu câu thơ thể hiện nỗi khắc khoải gần như tuyệt vọng. Bóng giai nhân vừa hiện lên đã chợt biến thành hư ảo bởi đó chỉ là hình bóng trong mơ. Hình ảnh giai nhân trong thơ Hàn Mặc Tử luôn biểu hiện cho sự tinh khiết, trinh trắng. Vì thế, màu áo trắng cứ như một ám ảnh kì lạ. Cụm từ nhìn không ra chỉ là một cách nói để cực tả sắc trắng, trắng một cách ki lạ, bất ngờ. Đây không còn là màu sắc thực mà đã thuộc về màu của tâm tưởng. Nhà thơ đã chìm vào tâm tưởng để nhìn thấy màu áo kí ức. Câu thơ một ảo ảnh bất ngờ nhưng có lí. Màu trắng tự nhiên choán hết cầm xúc khiến bài thơ tả cảnh thiên nhiên trở thành một bài thơ tình yêu, một thứ tình yêu đơn phương khó xác định. Đó là một khát vọng tình yêu đẹp nhòa trong kí ức.
Hai câu kết đưa người đọc đi vào cõi tâm tưởng. Ở đây là ở đâu? Là Vĩ Dạ của một thời thơ mộng đẹp mà thi nhân đang nhìn thấy sau tấm bưu ảnh? Hay trong này, nơi thi nhân ôm khát vọng yêu đượng trong nỗi cô đơn? Có lẽ chữ đây trong Đây thôn Vĩ Dạ là không gian của thê giới ngoài kia, còn chữ đây trong khổ thơ kết là thế giới trong này. Giữa hai thế giới cách nhau vừa đúng một tầm tuyệt vọng.
Cả bài thơ dồn hết tâm tư ở câu cuối: Ai biết tình ai có đậm đà? Hai chữ ai lặp lại bộc lộ tâm trạng bâng khuâng xót xa, trong đó có gì như cầu mong, có gì như tự an ủi, dẫu biết không còn hi vọng nhưng chỉ một chút ai biết cho tình ai cũng là đủ lắm rồi. Có lẽ câu cuối là lời đáp cho câu mơ đầu: Ai biết tình ai có đậm đà mà về chơi thôn Vĩ? Thật ra, có ai hỏi Hàn Mặc Tử đâu và chắc gì có người yêu thương? Tác giả đang sống trong tưởng tượng. Niềm thiết tha với cuộc đời đã biến thành những câu hỏi khắc khoải như xoáy vào tâm can người đọc. Bởi xét đến cùng, đau thương chính là biểu hiện tột cùng của khát vọng tình yêu không biến thành hiện thực. Người không yêu đời tha thiết sẽ không day dứt đến thê khi linh cảm thấy mình sắp lìa đời.
Tứ thơ và bút pháp của nhà thơ
Tứ thơ trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ có hai điểm đặc biệt:
Mở đầu bài thơ là một câu thỏi tự vấn: Sao anh không về chơi thôn Vĩ? 11 câu tiếp theo, tác giả tự trả lời câu hỏi ấy bằng những hình ảnh thơ, ý thơ. Đây chính là tứ thơ bộc bạch tâm trạng của tác giả.

Toàn bài thơ là một khối thống nhất có sự liên kết về logic nội tại của tâm trạng thi nhân, nhưng giữa ba khổ thơ lại có sự chuyển ý về tứ thơ và hình ảnh thơ: từ cảnh vườn quê trong khổ thơ thứ nhất sang cảnh sông trăng và thuyền trăng trong khổ thơ thứ hai, đến cảnh áo em trắng quá nhìn không ra trong khổ thơ thứ ba.
Bút pháp của Hàn Mặc Tử trong bài thơ là bút pháp trữ tình thiên về gợi tả và giàu liên tưởng với những hình ảnh biểu hiện nộỉ tâm nhằm bộc lộ tâm trạng của chính mình.

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here