Luận Văn Hoạt động tín dụng trong các ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay. Giải pháp

0
5044
Luận Văn Hoạt động tín dụng trong các ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay. Giải pháp
QUẢNG CÁO
Vài Phút Quảng Cáo Sản Phẩm


Luận Văn Hoạt động tín dụng trong các ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay. Giải pháp

Mọi ý kiến đóng góp xin gửi vào hòm thư: [email protected]

Kéo xuống để Tải ngay đề cương bản PDF đầy đủ: Sau “mục lục” và “bản xem trước”

(Nếu là đề cương nhiều công thức nên mọi người nên tải về để xem tránh mất công thức)

Đề cương liên quan:Luận Văn Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty TNHH Thương mại Tân Vĩnh Phát


Mục Lục

Tải ngay đề cương bản PDF tại đây:Luận Văn Hoạt động tín dụng trong các ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay. Giải pháp

Quảng Cáo

LỜI MỞ ĐẦU.

Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hoá, hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) cũng ngày càng phát triển và trở thành các trung gian tài chính đưa vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu, đáp ứng được nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp. Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, sản xuất hàng hoá phát triển nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp phục vụ sản xuất kinh doanh là rất lớn, tích luỹ không kịp để mở rộng sản xuất, chính vì vậy các doanh nghiệp đã cần sử dụng vốn tín dụng thực hiện mục đích của mình. Ở nước ta hiện nay thì chủ yếu mới chỉ có hoạt động tín dụng ngân hàng là thực hiện nhiệm vụ này, và các NHTM ngày càng phát triển thực hiện tốt chức năng vai trò của mình trong sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.

Để có thể hiểu rõ hơn về hoạt động tín dụng trong các NHTM và vai trò to lớn của nó trong nền kinh tế thị trường nhằm khai thác có hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng góp phần phát triển nền kinh tế Việt Nam, em xin chọn đề tài “Hoạt động tín dụng của hệ thống NHTM Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”. Bài viết bao gồm những nội dung sau:

  • Chương I: Lý luận chung về NHTM và tín dụng ngân hàng.
  • Chương II: Một số vấn đề cơ bản trong hoạt động tín dụng của NHTM ở Việt Nam.
  • Chương III: Thực trạng hoạt động tín dụng trong các NHTM ở Việt Nam hiện nay và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động tín dụng ngân hàng.

Em hy vọng bài viết có thể làm rõ một số lý luận về NHTM, hoạt động tín dụng ngân hàng, và thực trạng của hoạt động tín dụng trong các NHTM Việt Nam hiện nay. Bài viết chắc còn nhiều thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp

  • của thầy cô và các bạn để bài viết được hoàn chỉnh hơn.

1

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

VÀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG.

I/ Ngân hàng thương mại.

1/ Khái niệm Ngân hàng thương mại.

Ngân hàng Thương mại (NHTM) là tổ chức tài chính trung gian có vị trí quan trọng nhất trong nền kinh tế, nó là một loại hình doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ – tín dụng. Theo pháp lệnh ngân hàng ngày 23-5-1990 của Hội đồng Nhà nước xác định:” Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.

Như vậy NHTM làm nhiệm vụ trung gian tài chính đi vay để cho vay qua đó thu lời từ chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi, nó thực sự là một loại hình doanh nghiệp dịch vụ tài chính, mặc dù giữa NHTM và các tổ chức tài chính trung gian khác rất khó phân biệt sự khác nhau, nhưng người ta vẫn phải tách NHTM ra thành một nhóm riêng vì những lý do rất đặc biệt của nó như tổng tài sản có của NHTM luôn là khối lượng lớn nhất trong toàn bộ hệ thống Ngân hàng, hơn nữa khối lượng séc hay tài khoản gửi không kì hạn mà nó có thể tạo ra cũng là bộ phận quan trọng trong tổng cung tiền tệ M1 của cả nền kinh tế. Cho thấy NHTM có vị trí rất quan trọng trong hệ thống ngân hàng cũng như trong nền kinh tế quốc dân.

2/ Các nghiệp vụ của NHTM.

Các NHTM có 3 loại nghiệp vụ chính, đó là nghiệp vụ nợ (huy động tạo nguồn vốn), nghiệp vụ có (sử dụng vốn) và nghiệp vụ trung gian (thanh toán hộ khách hàng).

2.1/ Nghiệp vụ nợ.

Đây là nghiệp vụ huy động tạo nguồn vốn dùng cho các hoạt động của ngân hàng, bao gồm các nguồn vốn sau:

2.1.1. Nguồn vốn tự có, coi như tự có và vốn dự trữ.

  • Vốn điều lệ: Đây là số vốn ban đầu được hình thành khi NHTM được thành lập, nó có thể do Nhà nước cấp đối với NHTM quốc doanh, có thể là vốn đóng góp của các cổ đông đối với NHTM cổ phần, có thể là vốn góp của các bên liên

2

doanh đối với NHTM liên doanh, hoặc vốn do tư nhân bỏ ra của NHTM tư nhân. Mức vốn điều lệ là bao nhiêu tuỳ theo quy mô của NHTM được pháp lệnh quy định cụ thể.

  • Vốn coi như tự có: bao gồm lợi nhuận chưa chia, tiền lương chưa đến kỳ thanh toán, các khoản phải nộp nhưng chưa đến hạn nộp, các khoản phải trả nhưng chưa đến hạn trả.
  • Vốn dự trữ: Vốn này được hình thành từ lợi nhuận ròng của ngân hàng được trích thành nhiều quỹ trong đó quan trọng nhất là quỹ dự trữ và quỹ đề phòng rủi ro, được trích theo quy định của ngân hàng trung ương.

2.1.2/ Nguồn vốn quản lý và huy động.

Nguồn vốn này chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong nguồn vốn của ngân hàng. Đây là tài sản của các chủ sở hữu khác, ngân hàng có quyền sử dụng có thời hạn cả vốn lẫn lãi. Nó bao gồm các loại sau:

  • Tiền gửi không kỳ hạn của dân cư, doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế. Nó có mục đích chủ yếu là để bảo đảm an toàn tài sản và giao dịch, thanh toán không dùng tiền mặt, tiết kiệm chi phí lưu thông.
  • Tiền gửi có kỳ hạn của dân cư, doanh nghiệp và các tổ chức khác. Đây là khoản tiền gửi có thời gian xác định, về nguyên tắc người gửi chỉ được rút tiền khi đến hạn, nhưng thực tế ngân hàng cho phép người gửi có thể rút trước với điều kiện phải báo trước và có thể bị hưởng lãi suất thấp hơn. Mục đích của người gửi chủ yếu là lấy lãi.
  • Tiền gửi tiết kiệm: đây là khoản tiền để dành của cá nhân được gửi vào ngân hàng nhằm mục đích hưởng lãi theo định kỳ. Có 2 hình thức: một là, tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là loại tiền gửi mà người gửi có thể ký thác nhiều lần và rút ra theo nhu cầu sử dụng và không cần báo trước; hai là, tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn, là tiền gửi đến kỳ mới được rút.
  • Tiền phát hành trái phiếu, kỳ phiếu theo mức cho phép của Ngân hàng Nhà nước. Trái phiếu, kỳ phiếu có thời hạn cụ thể và chỉ đến thời hạn đó mới được thanh toán.

Hình thức kỳ phiếu thường được áp dụng theo 2 phương thức, một là: phát hành theo mệnh giá (người mua kỳ phiếu trả tiền mua theo mệnh giá và được trả cả gốc lẫn lãi khi đến hạn); hai là:phát hành dưới hình thức chiết khấu (người

3

mua kỳ phiếu sẽ trả số tiền mua bằng mệnh giá trừ đi số tiền chiết khấu và sẽ được hoàn trả theo đúng mệnh giá khi đến hạn).

2.1.3/ Vốn vay.

Bao gồm vốn vay của ngân hàng trung ương dưới hình thức tái chiết khấu hoặc cho vay ứng trước, vay ngân hàng nước ngoài, vay các tổ chức tín dụng khác và các khoản vay khác trên thị trường như: phát hành chứng chỉ tiền gửi, phát hành hợp đồng mua lại, phát hành giấy nợ phụ, các khoản vay USD ngoài nước … Với nguồn vốn này NHTM có trách nhiệm sử dụng có hiệu quả và hoàn trả đúng hạn cả vốn lẫn lãi.

2.1.4/ Các nguồn vốn khác.

Bao gồm các nguồn vốn tài trợ, vốn đầu tư phát triển, vốn uỷ thác đầu tư. Vốn này để cho vay theo các chương trình, dự án xây dựng cơ bản tập trung của Nhà nước hoặc trợ giúp cho đầu tư phát triển những chương trình dự án có mục tiêu riêng.

2.2/ Nghiệp vụ có.

Đây là những nghiệp vụ sử dụng nguồn vốn của mình để thực hiện kinh doanh tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng.

2.2.1/ Nghiệp vụ ngân quỹ.

  • Tiền két: tiền mặt hiện có tại quỹ nghiệp vụ. Nhu cầu dự trữ tiền két cao hay thấp phụ thuộc vào môi trường nơi ngân hàng hoạt động và thời vụ.
  • Tiền dự trữ: gồm tiền dự trữ bắt buộc là số tiền bắt buộc phải giữ lại theo tỷ lệ nhất định so với số tiền khách hàng gửi được quy định bởi ngân hàng trung ương; tiền dự trữ vượt mức là số tiền dự trữ ngoài tiền dự trữ bắt buộc; và tiền gửi thanh toán tại ngân hàng trung ương và các ngân hàng đại lý, tiền gửi loại này được sử dụng để thực hiện các khoản thanh toán chuyển khoản giữa các ngân hàng khi khách hàng tiến hành các thể thức thanh toán không dùng tiền mặt như séc, uỷ nhiệm chi, thẻ thanh toán…

2.2.2/ Nghiệp vụ cho vay và đầu tư.

  • Nghiệp vụ cho vay: hoạt động cho vay rất đa dạng và phong phú, nó là hoạt động quan trọng nhất, mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng và có tỷ lệ sinh lợi cao nhất của các NHTM, nó gồm các loại hình sau:

4

  • Tín dụng ứng trước: đây là thể thức cho vay được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng, trong đó khách hàng được sử dụng một mức cho vay trong một thời hạn nhất định. Có 2 loại là: ứng trước có bảo đảm như thế chấp, cầm cố, bảo lãnh; ứng trước không bảo đảm là việc cho vay chỉ dựa trên uy tín của khách hàng.
  • Thấu chi (tín dụng hạn mức): là hình thức cấp tín dụng ứng trước đặc biệt được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng, trong đó khách hàng được phép sử dụng dư nợ trong một giới hạn và thời hạn nhất định trên tài khoản vãng lai.
  • Chiết khấu thương phiếu: khách hàng chuyển nhượng quyền sở hữu thương phiếu chưa đáo hạn cho ngân hàng để nhận một số tiền bằng mệnh giá của thương phiếu trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng phí.
  • Bao thanh toán: là nghiệp vụ đi mua lại các khoản nợ của doanh nghiệp nào đó để rồi sau đó nhận các khoản chi trả của yêu cầu đó.
  • Tín dụng thuê mua: là hình thức tín dụng trung và dài hạn được thực hiện thông qua việc cho thuê máy móc thiết bị, động sản và bất động sản khác. Khi hết hạn thuê bên thuê được chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó.
  • Tín dụng bằng chữ ký: gồm tín dụng chấp nhận, tín dụng chứng từ và tín dụng bảo lãnh.
  • Tín dụng tiêu dùng: là hình thức tín dụng nhằm tài trợ cho nhu cầu tiêu dùng của dân cư, có 2 loại: một là, tín dụng tiêu dùng trực tiếp là việc ngân hàng cho vay trực tiếp khách hàng để tiêu dùng. Hai là, tín dụng tiêu dùng gián tiếp là việc ngân hàng mua các phiếu mua bán hàng từ những người bán lẻ hàng hoá, tức là hình thức tài trợ bán trả góp của NHTM.

– Nghiệp vụ đầu tư: NHTM dùng vốn để kinh doanh bất động sản, góp vốn liên doanh và kinh doanh chứng khoán. Trong đó đầu tư vào chứng khoán là một hình thức khá phổ biến, nó mang lại thu nhập cho ngân hàng, nâng cao khả năng thanh khoản (vì chứng khoán rất đa dạng, nhiều thể loại và có tính thanh khoản cao). NHTM có thể mua chứng khoán ngắn hạn của Chính phủ, nó vừa tăng thu nhập cho ngân hàng, vừa góp phần cân bằng thu chi ngân sách thường xuyên. NHTM còn được phép mua cổ phiếu, trái phiếu của các doanh nghiệp tham gia vào việc thành lập và quản lý các doanh nghiệp. Tuy nhiên NHTM chỉ được đầu

5

tư chứng khoán có giới hạn không được để hoạt động này lấn át hoạt động cho vay.

Nghiệp vụ đầu tư đã giúp cho ngân hàng có thể đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh của ngân hàng nhằm phân tán rủi ro và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng đồng thời khai thác và sử dụng tối đa nguồn vốn đã huy động.

2.3/ Nghiệp vụ trung gian.

  • đây ngân hàng thực hiện nhiệm vụ phục vụ khách hàng, thực hiện các nhiệm vụ theo sự uỷ thác của khách bao gồm:

– Nghiệp vụ thanh toán: ngân hàng là một trung tâm thanh toán không bằng tiền mặt, nó thanh toán dưới các hình thức: séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thư tín dụng, thẻ thanh toán, ngân phiếu thanh toán.

– Nghiệp vụ thu hộ: ngân hàng thay mặt khách hàng nhận tiền theo các chứng khoán khác nhau như séc, kỳ phiếu, các chứng từ hàng hoá và chứng khoán có giá.

– Nghiệp vụ thương mại: ngân hàng mua hộ hoặc bán hộ khách hàng, hàng hoá ở đây chủ yếu là các chứng khoán.

– Nghiệp vụ phát hành chứng khoán: đây là một nghiệp vụ quan trọng và ngày càng phát triển. Các công ty cổ phần, các doanh nghiệp muốn phát hành chứng khoán có giá trị như cổ phiếu, kỳ phiếu đầu tư có mục đích… nhằm thu hút vốn để tăng nguồn vốn, hay khi Nhà nước phát hành công trái thì thường nhờ các ngân hàng, thông qua NHTM làm trung gian tiêu thụ các chứng khoán đó và được nhận số tiền thù lao theo tỷ lệ quy định từ người phát hành.

– Nghiệp vụ uỷ thác: làm theo các uỷ thác của khách hàng như bảo quản tài sản( đá quý, chứng khoán…), khách hàng phải trả lệ phí cho việc bảo quản; thực hiện các uỷ nhiệm về chuyển quyền thừa kế tài sản: khách hàng nhờ ngân hàng thực hiện các di chúc sau khi họ qua đời.

2.4/ Mối quan hệ giữa 3 nghiệp vụ.

Giữa 3 nghiệp vụ này có một mối liên hệ khăng khít, tương hỗ lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Giữa nghiệp vụ nợ và nghiệp vụ có có tác động qua lại, cùng giúp cho nhau phát triển. Muốn cho vay, kinh doanh thu lời thì phải

6

có vốn, vậy trước tiên ngân hàng phải huy động vốn, bởi vậy nghiệp vụ nợ là tiền đề để phát triển nghiệp vụ có, nghiệp vụ nợ càng phát triển thì càng tạo điều kiện cho nghiệp vụ có được mở rộng. Ngược lại, nếu ngân hàng cho vay, kinh doanh càng nhiều, càng thu được nhiều lãi thì càng bổ sung thêm cho nguồn vốn, tạo điều kiện cho nghiệp vụ có được phát triển.

Giữa nghiệp vụ nợ – có với nghiệp vụ trung gian cũng có tác động qua lại lẫn nhau. Khách hàng vừa là người gửi tiền vừa là người vay đối với ngân hàng, họ có quan hệ thanh toán với nhau qua ngân hàng bởi vậy nghiệp vụ nợ và có phát triển sẽ tác động làm tăng nghiệp vụ trung gian. Mặt khác nghiệp vụ trung gian cũng có tác dụng tích cực đối với nghiệp vụ nợ – có, khi thực hiện các nghiệp vụ trung gian như thu hộ, uỷ thác, thương mại … sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng tập trung được những khoản tiền mà nhờ đó bổ sung cho nghiệp vụ nợ và đồng thời phát triển nghiệp vụ có tức là bổ sung tạm thời vào nguồn vốn để tiến hành cho vay.

Một vấn đề quan trọng nữa là về khả năng thanh toán của mỗi ngân hàng. Nếu cho vay quá lớn, tuy có thể thu lãi nhiều song gặp rủi ro là khi những người gửi tiền ở ngân hàng đồng loạt đến rút tiền sẽ gây ra biến động lớn nguồn vốn khả năng thanh toán làm cho hệ số an toàn và khả năng thanh toán của ngân hàng sẽ giảm xuống. Ngược lại nếu cho vay ít thì khả năng thanh toán cao hơn nhưng thu lãi ít không bổ sung phát triển được nghiệp vụ nợ.

Chính vì vậy mà mối liên hệ mật thiết giữa các nghiệp vụ của ngân hàng là hết sức quan trọng, do đó người làm ngân hàng phải biết bố trí một cách khoa học và phù hợp giữa các nghiệp vụ để đảm bảo ngân hàng hoạt động có hiệu quả.

II/ Hoạt động tín dụng của NHTM.

Hoạt động tín dụng là một trong những nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng, nó là hoạt động sinh lợi chủ yếu và luôn chiếm một tỉ trọng lớn trong tổng tài sản có của các NHTM, do đó nó có vị trí rất quan trọng trong hoạt động của ngân hàng. Chính vì vậy vấn đề về tín dụng rất được các ngân hàng quan tâm, trong khuôn khổ đề tài này em xin được đi sâu vào hoạt động tín dụng của NHTM.

1/ Khái niệm tín dụng ngân hàng.

1.1/ Định nghĩa tín dụng.

 

7

Trong nền kinh tế hàng hoá, trong cùng một thời gian luôn có một số người tạm thời thừa vốn, có vốn tạm thời nhàn rỗi và có nhu cầu cho vay. Bên cạnh đó luôn có một số người tạm thời thiếu vốn, có nhu cầu đi vay. Hiện tượng này làm nảy sinh mối quan hệ kinh tế mà nội dung của nó là vốn được dịch chuyển từ nơi tạm thời thừa sang nơi thiếu với điều kiện hoàn trả vốn và lãi tiền vay là lợi nhuận thu được do sử dụng vốn vay. Đây chính là quan hệ tín dụng.

Như vậy tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc hoàn trả kèm theo lợi tức, nó để thoả mãn nhu cầu của cả 2 bên, do đó nó là một quan hệ bình đẳng, cả 2 bên cùng có lợi và mang tính thoả thuận lớn.

Quan hệ tín dụng đã hình thành và ra đời từ rất lâu, thậm chí mối quan hệ tín dụng thô sơ nhất được phát sinh ngay từ sau khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã. Quan hệ tín dụng đã phát triển qua nhiều hình thức từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, qua từng thời kỳ, từng giai đoạn phát triển mà dần hình thành nên các hình thức tín dụng mới có trình độ cao hơn, đã có các hình thức tín dụng sau: tín dụng nặng lãi, tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng nhà nước và tín dụng tiêu dùng. Mỗi một hình thức tín dụng đều có điều kiện kinh tế xã hội cụ thể. Tuy nhiên trong sự phát triển của mình, các hình thức quan hệ tín dụng trước không hề mất đi mà vẫn còn tồn tại và phát huy tác dụng khi có sự ra đời một hình thức tín dụng mới. Ngày nay, tất cả các hình thức tín dụng trên đều còn tồn tại và bổ sung lẫn nhau, và nó có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế.

1.2/ Tín dụng ngân hàng.

Trong các hình thức trên thì tín dụng ngân hàng là một hình thức tín dụng vô cùng quan trọng, nó là một quan hệ tín dụng chủ yếu, cung cấp phần lớn nhu cầu tín dụng cho các doanh nghiệp, các thể nhân khác trong nền kinh tế. Với công nghệ ngân hàng hiện nay, tín dụng ngân hàng càng trở thành một hình thức tín dụng không thể thiếu ở cả trong nước và quốc tế.

Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân hàng còn bên kia là các tác nhân và thể nhân khác trong nền kinh tế.

Tín dụng ngân hàng là mối quan hệ vay mượn giữa ngân hàng với tất cả các cá nhân, tổ chức và các doanh nghiệp khác trong xã hội. Nó không phải là quan hệ dịch chuyển vốn trực tiếp từ nơi tạm thời thừa sang nơi tạm thời thiếu

8

mà là quan hệ dịch chuyển vốn gián tiếp thông qua một tổ chức trung gian, đó là ngân hàng. Tín dụng ngân hàng cũng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng, đó là quan hệ vay mượn có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn và là quan hệ bình đẳng cả 2 bên cùng có lợi.

1.3/ Đặc điểm của tín dụng ngân hàng.

  • Tín dụng ngân hàng thực hiện cho vay dưới hình thức tiền tệ: cho vay bằng tiền tệ là loại hình tín dụng phổ biến, linh hoạt và đáp ứng mọi đối tượng trong nền kinh tế quốc dân.
  • Tín dụng ngân hàng cho vay chủ yếu bằng vốn đi vay của các thành phần trong xã hội chứ không phải hoàn toàn là vốn thuộc sở hữu của chính mình như tín dụng nặng lãi hay tín dụng thương mại.
  • Quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng độc lập tương đối với sự vận động và phát triển của quá trình tái sản xuất xã hội. Có những trường hợp mà nhu cầu tín dụng ngân hàng gia tăng nhưng sản xuất và lưu thông hàng hoá không tăng, nhất là trong thời kỳ kinh tế khủng hoảng, sản xuất và lưu thông hàng hoá bị co hẹp nhưng nhu cầu tín dụng vẫn gia tăng để chống tình trạng phá sản. Ngược lại trong thời kỳ kinh tế hưng thịnh, các doanh nghiệp mở mang sản xuất, hàng hoá lưu chuyển tăng mạnh nhưng tín dụng ngân hàng lại không đáp ứng kịp. Đây là một hiện tượng rất bình thường của nền kinh tế.
  • Hơn nữa tín dụng ngân hàng còn có một số ưu điểm nổi bật so với các hình thức khác là:

Tín dụng ngân hàng có thể thoả mãn một cách tối đa nhu cầu về vốn của các tác nhân và thể nhân khác trong nền kinh tế vì nó có thể huy động nguồn vốn bằng tiền nhàn rỗi trong xã hội dưới nhiều hình thức và khối lượng lớn.

Tín dụng ngân hàng có thời hạn cho vay phong phú, có thể cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn do ngân hàng có thể điều chỉnh giữa các nguồn vốn với nhau để đáp ứng nhu cầu về thời hạn vay.

Tín dụng ngân hàng có phạm vi lớn vì nguồn vốn bằng tiền là thích hợp với mọi đối tượng trong nền kinh tế, do đó nó có thể cho nhiều đối tượng vay.

2/ Phân loại tín dụng ngân hàng.

 

9

Có rất nhiều cách phân loại tín dụng ngân hàng dựa vào các căn cứ khác nhau tuỳ theo mục đích nghiên cứu. Tuy nhiên người ta thường phân loại theo một số tiêu thức sau:

  • Theo thời gian sử dụng vốn vay, tín dụng được phân thành 3 loại sau:
  • Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm, thường được sử dụng vào nghiệp vụ thanh toán, cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của các doanh nghiệp hay cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng của cá nhân.
  • Tín dụng trung hạn: có thời hạn từ 1 đến 5 năm, được dùng để cho vay vốn phục vụ nhu cầu mua sắm tài sản cố định, cải tiến đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh.
  • Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, được sử dụng để cung cấp vốn cho xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn.

Thường thì tín dụng trung và dài hạn được đầu tư để hình thành vốn cố định và một phần vốn tối thiểu cho hoạt động sản xuất.

  • Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay, tín dụng ngân hàng chia thành 2 loại:
  • Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: là loại tín dụng được cung cấp cho các doanh nghiệp để họ tiến hành sản xuất và kinh doanh.
  • Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng được cấp phát cho cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. Loại tín dụng này thường được dùng để mua sắm nhà cửa, xe cộ, các thiết bị gia đình… Tín dụng tiêu dùng ngày càng có xu hướng tăng lên.
  • Căn cứ vào tính chất đảm bảo của các khoản cho vay, có các loại tín dụng sau:
  • Tín dụng có bảo đảm: là loại hình tín dụng mà các khoản cho vay phát ra đều có tài sản tương đương thế chấp, có các hình thức như: cầm cố, thế chấp, chiết khấu và bảo lãnh.
  • Tín dụng không có bảo đảm: là loại hình tín dụng mà các khoản cho vay phát ra không cần tài sản thế chấp mà chỉ dựa vào tín chấp. Loại hình này thường được áp dụng với khách hàng truyền thống, có quan hệ lâu dài và sòng phẳng với ngân hàng, khách hàng này phải có tình hình tài chính lành mạnh và có uy tín đối

10

với ngân hàng như trả nợ đầy đủ, đúng hạn cả gốc lẫn lãi, có dự án sản xuất kinh doanh khả thi, có khả năng hoàn trả nợ…

Trong nền kinh tế thị trường việc phân loại tín dụng ngân hàng theo các tiêu thức trên chỉ có ý nghĩa tương đối. Khi các hình thức tín dụng càng đa dạng thì cách phân loại càng chi tiết. Phân loại tín dụng giúp cho việc nghiên cứu sự vận động của vốn tín dụng trong từng loại hình cho vay và là cơ sở để so sánh, đánh giá hiệu quả kinh tế của chúng.

3/ Lãi suất tín dụng ngân hàng.

3.1/ Khái niệm.

Trước hết ta cần xem xét lợi tức tín dụng. Lợi tức tín dụng là thu nhập mà người cho vay nhận được ở người đi vay do việc sử dụng tiền vay của người này.

  • đây người đi vay sử dụng vốn vay được để sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận được tạo ra trong quá trình này tất yếu được phân chia theo một tỷ lệ thoả đáng giữa người cho vay và người đi vay tương ứng với nguồn vốn bỏ vào sản xuất kinh doanh. Phần lợi nhuận dành cho người cho vay này được gọi là lợi tức.

Thực chất lợi tức là giá cả của lượng hàng hoá (tức lượng tiền tệ ) cho vay. Giá cả này lên xuống theo quan hệ cung cầu của vốn, nhưng khác với các hàng hoá thông thường khá là giá cả của chúng phản ánh và xoay quanh giá trị của chúng, còn giá cả của vốn lại hoàn toàn không phản ánh được giá trị của vốn, nó còn phụ thuộc vào nhu cầu và sự thoả thuận của 2 bên. Chính vì vậy, lợi tức chưa phản ánh được hiệu quả của số vốn cho vay phát ra.

Như vậy, để xác định khả năng sinh lợi của vốn cho vay người ta đã so sánh lợi tức với vốn cho vay hình thành nên lãi suất tín dụng. Vì vậy ta có định nghĩa khái quát về lãi suất tín dụng như sau: Lãi suất tín dụng là tỷ lệ so sánh giữa số lợi tức thu được với số vốn cho vay phát ra trong một thời kỳ nhất định. Lãi suất tín dụng chính là sự cụ thể hoá của lợi tức tín dụng, nó là cái giá của quyền được sử dụng vốn trong một thời gian nhất định, mà người sử dụng phải trả cho người sở hữu nó.

3.2/ Các loại lãi suất tín dụng ngân hàng.

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và các hình thức tín dụng mà các loại lãi suất tín dụng cũng được hình thành một cách đa dạng, đại bộ phận chúng đều do ngân hàng trung ương kiểm soát và khống chế. Các hình thức lãi suất

11

càng phong phú thì càng tạo độ linh hoạt và hiệu quả trong quan hệ tín dụng vì chính lãi suất là chất xúc tác hình thành nên quan hệ tín dụng, do đó cần phải phân biệt được các loại lãi suất tín dụng ngân hàng để thấy được hiệu quả của chúng trong phát triển tín dụng nói riêng và phát triển nền kinh tế nói chung.

Thông thường hệ thống lãi suất trên thị trường có các loại lãi suất sau:

  • Lãi suất cơ bản: là lãi suất do ngân hàng trung ương công bố làm cơ sở cho các NHTM và các tổ chức tín dụng khác ấn định lãi suất kinh doanh.
  • Lãi suất sàn và lãi suất trần: là lãi suất thấp nhất và lãi suất cao nhất trong một khung lãi suất nào đó mà ngân hàng trung ương ấn định cho các NHTM hoặc do NHTM quy định trong hệ thống của nó nhằm thống nhất các hoạt động tín dụng trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
  • Lãi suất tái chiết khấu: là lãi suất cho vay ngắn hạn mà ngân hàng trung ương dành cho các NHTM, trong trường hợp cấp vốn cho chúng thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá. Lãi suất tái chiết khấu là lãi suất gốc của các NHTM, để từ đó chúng ấn định lãi suất chiết khấu và lãi suất cho vay khác trong khung lãi suất được phép.
  • Lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực:

Lãi suất danh nghĩa là lãi suất mà người cho vay được hưởng, không tính đến sự biến động của giá trị tiền tệ, nó được xác định cho một kỳ hạn gửi hoặc vay, thể hiện trên quy ước giấy tờ được thoả thuận trước.

Lãi suất thực là lãi suất sau khi đã loại trừ sự biến động của giá trị tiền tệ, như lạm phát hoặc lên giá tiền tệ. Do đó ta có công thức tính lãi suất thực như sau: Lãi suất thực= lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát dự đoán.

Do vậy, lãi suất danh nghĩa luôn lớn hơn 0 nhưng lãi suất thực thì không phải lúc nào cũng dương, khi xảy ra lạm phát mà tỷ lệ lạm phát lại lớn hơn lãi suất danh nghĩa thì lúc đó lãi suất thực sẽ <0 điều này sẽ gây bất lợi cho người cho vay và người đi vay lại có lợi hơn. Chính lãi suất thực ảnh hưởng đến đầu tư, đến việc tái phân phối thu nhập giữa người cho vay và người đi vay, vì vậy ngân hàng chỉ thực sự thúc đẩy tích luỹ khi đưa ra được chính sách lãi suất thực dương.

4/ Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.

 

12

Là một mối quan hệ kinh tế, tín dụng ngân hàng có những tác động nhất định đến hoạt động kinh tế. Nhất là trong nền kinh tế thị trường, nó có vai trò khá quan trọng:

4.1/ Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển. Nhờ có nguồn vốn tín dụng của ngân hàng nên các doanh nghiệp có điều kiện bổ sung vốn thiếu hụt tạm thời hay mở rộng nguồn vốn đảm bảo được quá

trình sản xuất bình thường và còn có thể mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, áp dụng kỹ thuật công nghệ mới tăng tính cạnh tranh. Tín dụng đã giúp các doanh nghiệp đẩy nhanh quá trình sản xuất và tiêu thụ, tạo điều kiện để duy trì mối liên hệ hữu cơ giữa sản xuất, lưu thông hàng hoá và tiêu dùng xã hội.

Ngày nay trong quá trình toàn cầu hoá, quan hệ quốc tế ngày càng tăng cường, mỗi quốc gia trở thành một bộ phận của thị trường thế giới, do đó tín dụng ngân hàng trên lĩnh vực tín dụng quốc tế cũng trở nên quan trọng giúp cho việc liên kết chuyển giao công nghệ giữa các nước trên thế giới được nhanh chóng, rút ngắn thời gian phát triển.

Như vậy hoạt động tín dụng của các NHTM đã góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng ngay cả trong nước và quốc tế.

4.2/ Tín dụng ngân hàng là công cụ tích tụ và tập trung vốn rất quan trọng, từ đó giúp cho việc tích tụ và tập trung sản xuất.

Tín dụng ngân hàng tập trung các khoản tín dụng nhỏ lẻ thành các khoản vốn lớn, tạo khả năng đầu tư vào các công trình lớn hiệu quả cao. Đồng thời các doanh nghiệp cũng nhờ các khoản tín dụng mà có đủ vốn để mở rộng sản xuất rút ngắn thời gian tích luỹ vốn. Tóm lại, tín dụng đã đóng vai trò tích cực thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn cho sản xuất.

Thông qua tín dụng ngân hàng các doanh nghiệp nhận được khối lượng vốn bổ sung rất lớn từ đó tăng quy mô sản xuất, tăng năng suất lao động, đổi mới thiết bị, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tăng khả năng cạnh tranh làm cho doanh nghiệp lớn ngày càng lớn lên, doanh nghiệp nhỏ bị phá sản do không cạnh tranh nổi, từ đó các doanh nghiệp nhỏ phải liên kết với nhau tăng khả năng cạnh tranh, như vậy tín dụng đã góp phần thúc đẩy quá trình tập trung sản xuất.

13

4.3/ Tín dụng ngân hàng giúp cho việc điều hoà nguồn vốn góp phần ổn định thị trường tiền tệ, phát triển cân đối các ngành trong nền kinh tế quốc dân, và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Thông qua tín dụng mà nguồn vốn dịch chuyển từ nơi thừa đến nơi thiếu, làm cho xã hội bớt lãng phí ở những nơi thừa vốn, giảm khó khăn ở nơi thiếu vốn, giúp cho việc sử dụng vốn có hiệu quả, góp phần làm cho tốc độ luân chuyển hàng hoá và tiền vốn tăng lên, tạo sự phát triển đồng đều trong các ngành.

Việc điều hoà nguồn vốn, đồng thời thông qua khung lãi suất quy định giúp cho chính sách tiền tệ của Chính phủ được thực hiện, điều hoà lưu thông tiền tệ góp phần ổn định tiền tệ, và sự phát triển lành mạnh của thị trường tài chính tiền tệ.

Hơn nữa, thông qua tín dụng ngân hàng, Chính phủ có những chính sách ưu tiên hỗ trợ phát triển các vùng, miền hay các ngành then chốt, trọng điểm nhờ vào việc đưa ra các ưu đãi tín dụng… do vậy đã kích thích thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư vào các vùng, ngành trọng điểm trong diện ưu tiên của Chính phủ, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo sự phát triển cân đối trong cả nước.

14

CHƯƠNG II: CÁC YẾU TỐ CƠ BẢN ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NHTM VÀ BIỂU HIỆN THỰC TẾ Ở VIỆT NAM.

Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của NHTM, bao gồm cả yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan, như: Môi trường kinh doanh, môi trường pháp luật, địa bàn hoạt động… Tuy nhiên trong chương này sẽ chỉ đề cập về một số yếu tố chủ quan, bản thân ngân hàng kiểm soát được có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả và khả năng phát triển của hoạt động tín dụng trong các NHTM, và tình trạng của chúng trong thực tiễn ở Việt Nam.

I/ Quy trình tín dụng.

Hoạt động cho vay là một hoạt động cơ bản của ngân hàng. Nó mang lại doanh thu và lợi nhuận cho ngân hàng tồn tại và phát triển. Tuy nhiên việc cho vay là một vấn đề không đơn giản, nó mang lại khá nhiều rủi ro, bất trắc, vì vậy để đảm bảo cho hoạt động này có hiệu quả tích cực thì cần phải đảm bảo thực hiện cho vay theo đúng quy trình thủ tục đã được quy định. Quy trình cho vay đối với các đối tượng khác nhau cũng khác nhau. Và ở Việt Nam có quy định cụ thể về quy trình cho vay đối với các tổ chức tín dụng như sau:

1/ Hình thành khoản vay.

Đối với cá nhân thì hầu hết các khoản vay được bắt đầu bằng việc khách hàng xin vay vốn, họ đến gặp nhân viên ngân hàng và ghi những thông tin cần thiết vào đơn xin vay. Trong trường hợp cho vay kinh doanh, các doanh nghiệp thì thường bắt đầu bằng việc tiếp xúc giữa cán bộ tín dụng và đại diện các hãng. Đây chính là cơ hội đầu tiên để cán bộ ngân hàng tìm hiểu thông tin về doanh nghiệp và thuyết phục họ về một khoản vay.

2/ Xử lý yêu cầu vay vốn.

Sau khi nhận được một yêu cầu vay vốn thì cán bộ ngân hàng cần xử lý yêu cầu vay vốn này. Với một khách hàng cá nhân thì anh ta cần trả lời đầy đủ các câu hỏi của cán bộ tín dụng, qua đó cán bộ có thể tìm hiểu về mục đích xin vay, tính cách và điều kiện, khả năng sử dụng vốn và khả năng trả nợ của khách hàng qua đó có thể chấp nhận hay từ chối khoản vay.

Còn đối với doanh nghiệp, cán bộ tín dụng phải thu thập thông tin cần thiết về doanh nghiệp gồm các thông tin về quản lý, hành chính; thông tin về tình hình tài chính, về cá nhân; thông tin về khoản vay của doanh nghiệp. Việc thu

thập thông tin không chỉ thông qua phỏng vấn, giấy tờ báo cáo của doanh nghiệp mà cán bộ còn phải đi xuống tận cơ sở sản xuất kinh doanh để quan sát, nghiên cứu. Ngoài ra còn phải điều tra thêm về các thông tin khác có liên quan đặc biệt là việc thực thi các quan hệ tín dụng trước đó của doanh nghiệp thông qua tiếp xúc với các chủ nợ trước đó. Xác định các thông tin doanh nghiệp đã cung cấp và khám phá các thông tin mới cần thiết về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Sau khi đã xác định rõ thì ngân hàng còn có thể tư vấn cho khách hàng vay vốn về sự hợp lý của yêu cầu vay vốn và có thể gợi ý sự sửa đổi.

3/ Đưa ra quyết định cho vay.

Sau khi đã tập hợp đầy đủ thông tin tài liệu thì bộ phận phân tích tín dụng sẽ tiến hành phân tích các báo cáo tài chính nhằm xác định xem dòng tiền và các tài sản dự phòng của khách có đủ hoàn trả món vay hay không, sau đó sẽ chuẩn bị một bản báo cáo tóm tắt có kèm theo kết quả phân tích để gửi cho người có thẩm quyền xem xét. Từ đó rút ra kết luận chính xác về điểm mạnh điểm yếu trong yêu cầu xin vay của khách hàng. Sau khi đã xem xét khoản vay, chính sách tín dụng và mục đích, mục tiêu của ngân hàng, cán bộ phải đưa ra một quyết định có nên cho vay hay không và doanh nghiệp phải được thông báo ngay lập tức. Nếu yêu cầu được chấp thuận cán bộ tín dụng phải trao cho người vay danh mục các chứng từ cần thiết để ký kết khoản vay và đưa ra ngày dự tính ký kết.

4/ Cấu trúc khoản vay, ký kết khoản vay.

Một khoản vay có cấu trúc hoàn hảo là khoản vay đáp ứng được nhu cầu cụ thể của doanh nghiệp đồng thời cũng thoả mãn các tiêu thức tín dụng của ngân hàng. Cấu trúc của khoản vay gồm các yếu tố: lãi suất; thời hạn và lịch hoàn trả; sự đảm bảo; người bảo lãnh; các hạn chế và kiểm soát. Các yếu tố này phụ thuộc vào sự đàm phán thỏa thuận giữa ngân hàng và doanh nghiệp xin vay.

Sau khi đã đạt được thoả thuận vay vốn thì hai bên cần xây dựng một hợp đồng tín dụng làm sao cho phù hợp với tình hình riêng biệt cụ thể và đáp ứng được các yêu cầu của ngân hàng. Và cuối cùng là việc ký kết khoản vay. Trước khi ký kết cần phải chuẩn bị lập ra một danh mục kiểm tra toàn bộ các chứng từ tài liệu cần thiết, và ngày ký kết phải có đầy đủ 2 bên, và đảm bảo cả 2 đều phải hiểu cặn kẽ giấy tờ vay vốn. Việc ký kết khoản vay được quản lý tốt sẽ có tác

16

dụng rất lớn trong việc thúc đẩy mối quan hệ làm ăn tốt giữa ngân hàng và doanh nghiệp.

5/ Kiểm soát khoản cho vay.

Ký kết tín dụng chưa phải là đã kết thúc một quá trình cho vay mà ngân hàng còn phải tiếp tục theo dõi khoản cho vay này để đảm bảo rằng khách hàng sẽ thanh toán đầy đủ cả gốc và lãi như đã cam kết. Còn với các khoản cho vay thương mại lớn cán bộ tín dụng phải đến và kiểm tra công việc kinh doanh của khách hàng định kỳ, đồng thời phải tổ chức quá trình kiểm soát cẩn thận và nghiêm túc để đảm bảo xem xét và đánh giá được tất cả những đặc tính quan trọng nhất đối với khoản vay như: đánh giá quá trình thanh toán, đánh giá chất lượng, tình trạng của tài sản thế chấp, đánh giá sự thay đổi trong tình hình tài chính của người vay… Tiến hành theo dõi thường xuyên hơn đối với những khoản cho vay có vấn đề.

Kiểm soát tín dụng là rất quan trọng đối với hoạt động cho vay của ngân hàng. Nó không chỉ giúp các nhà quản lý ngân hàng phát hiện ra những khoản cho vay có vấn đề nhanh hơn mà còn giúp xác định được vấn đề các cán bộ tín dụng có tuân thủ đúng chính sách cho vay của ngân hàng hay không.

6/ Xử lý khoản vay có vấn đề.

Mặc dù đã có những biện pháp quản lý an toàn áp dụng trong các chương trình cho vay song việc tồn tại các khoản cho vay có vấn đề là một thực tế không thể tránh khỏi, có nghĩa là người vay đã không thực hiện thanh toán đúng kế hoạch hay giá trị tài sản thế chấp đã sụt giảm đáng kể.

Khi cán bộ tín dụng nhận ra khoản vay có vấn đề thường thì cán bộ tín dụng cần phải liên lạc với doanh nghiệp để giám sát khoản vay. Nếu ngân hàng và doanh nghiệp muốn sửa chữa khoản vay thì phải xác định được nguyên nhân của vấn đề và tìm ra giải pháp, khi kế hoạch sửa chữa đã được thiết lập thì ngân hàng phải giám sát việc thực hiện một cách liên tục, doanh nghiệp phải báo cáo thường xuyên và cả 2 bên cùng phải quan tâm tích cực và phải thường xuyên thận trọng phân tích kết quả của chương trình sửa chữa. Và thường thì ngân hàng chỉ tiến hành thủ tục pháp lý để thu hồi khoản nợ vay sau khi đã áp dụng các biện pháp chỉnh sửa mà không có hiệu quả.

17

7/ Thu nợ.

Khi doanh nghiệp mất khả năng thanh toán theo các điều kiện của hợp đồng tín dụng thì cán bộ tín dụng phải lập ngay một kế hoạch thu nợ, sau đó thận trọng cân nhắc vạch ra các phương án khác nhau để có thể thực hiện điều đó. Thường thì ngân hàng thuyết phục khách hàng tự động bán tài sản thế chấp của mình, nếu không được thì ngân hàng sẽ tiến hành thu hồi tài sản cầm cố thế chấp và bán hoặc cho thuê tài sản này. Việc ngân hàng xử lý và bán lại tài sản làm đảm bảo phải chú ý thực hiện đúng mọi điều khoản luật pháp có liên quan, vì nếu không ngân hàng sẽ phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại xảy ra đối với khách hàng.

  • Đây là một quy trình rất cụ thể, nếu thực hiện tốt sẽ đảm bảo sự an toàn chắc chắn trong việc cho vay. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay việc áp dụng nó còn nhiều tồn tại như: thủ tục, giấy tờ còn rườm rà, nhất là đối với việc cho hộ nông dân vay, đó là những món vay nhỏ lẻ, địa bàn cư trú của người vay phân tán, trình độ dân trí thấp, nhu cầu vay vốn cao, vậy mà hồ sơ, quy trình thủ tục vay vốn của họ lại rất phức tạp, gây khó khăn cho người dân. Hay như, việc tuân thủ theo đúng quy trình của cán bộ tín dụng hoặc sự hợp tác của khách hàng vay vốn trong việc cung cấp thông tin, giám sát… cũng là một vấn đề bức xúc, do trình độ kém hay đạo đức nghề nghiệp khiến cho cán bộ tín dụng đôi khi không thực hiện đúng quy trình, hay khách hàng không hợp tác khiến cho việc cho vay gặp nhiều khó khăn và có thể dẫn đến rủi ro lớn. Nhất là hiện nay vấn đề nợ quá hạn, nợ khó đòi trong các NHTM là rất lớn, một phần là do quy trình thủ tục cho vay không được đảm bảo thực hiện đúng như quy định, đồng thời biện pháp thu hồi nợ sau khi cho vay trong các ngân hàng cũng chưa được xây dựng tổ chức tốt, vì vậy hiệu quả của các khoản tín dụng là rất thấp. Tình hình đó đòi hỏi các cán bộ tín dụng khi cho vay cần đảm bảo thực hiện đầy đủ và đảm bảo các bước trong quy trình cho vay mà các ngân hàng đều đã cụ thể hóa trong các văn bản hướng dẫn của mình.

II/ Các phương thức tín dụng.

Nhìn chung các phương thức cấp tín dụng của NHTM có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của doanh nghiệp. Các ngân hàng mạnh không chỉ thể hiện ở chỗ cung ứng một khối lượng tín dụng to lớn cho thị trường mà là ở chỗ phương

thức cấp tín dụng như thế nào. Ở Việt Nam các phương thức cho vay còn quá nghèo nàn, hầu như chỉ bán ra những gì mà ngân hàng có chứ không thật quan tâm đến cái mà khách hàng cần, do đó kém sức hấp dẫn và khó mở rộng tín dụng. Trong Quyết định số 324/1998/QĐ-NHNN1 ngày 30/9/1998 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc “Ban hành quy chế cho vay của các Tổ chức tín dụng đối với khách hàng” có quy định về một số phương thức cho vay của các tổ chức tín dụng. Nó quy định tổ chức tín dụng thoả thuận với khách hàng về phương thức cho vay phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn vay và khả năng kiểm tra, giám sát việc khách hàng sử dụng vốn vay theo một trong các phương thức cho vay sau:

  1. Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn khách hàng và tổ chức tín dụng làm thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng.
  2. Cho vay theo hạn mức tín dụng: Tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong thời hạn nhất định hoặc theo chu kỳ sản xuất, kinh doanh.
  1. Cho vay theo dự án đầu tư: Tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án phục vụ đời sống.
  2. Cho vay hợp vốn: Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng; trong đó, có một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác. Việc cho vay hợp vốn thực hiện theo quy định của quy chế này và quy chế đồng tài trợ của các tổ chức tín dụng do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành.
  1. Cho vay trả góp: Khi vay vốn, tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả thuận số lãi tiền vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay, tài sản mua bằng vốn vay chỉ thuộc sở hữu của bên vay khi trả đủ nợ gốc và lãi.
  1. Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Tổ chức tín dụng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng.

19

  1. Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Tổ chức tín dụng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức tín dụng. Khi cho vay phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, tổ chức tín dụng và khách hàng phải tuân theo các quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước về phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.
  2. Các phương thức cho vay khác phù hợp với quy định của Quy chế này và các quy định khác của Ngân hàng Nhà nước.
    • Tuy nhiên Quyết định 324 còn quy định khá chung chung, và đối với các NHTM việc áp dụng cụ thể như thế nào lại thuộc quyền hướng dẫn của mỗi ngân hàng, và tất nhiên có bao nhiêu ngân hàng sẽ có bấy nhiêu văn bản pháp lý khác nhau quy định cụ thể về các phương thức cho vay. Nhưng có những điều mà các NHTM lại không thích quy định cụ thể rõ ràng trong văn bản vì nếu thế sẽ bị mắc trong quá trình thực hiện hoặc sẽ không có chỗ “lùi” khi mà quy định của ngân hàng mình lại “chặt” hơn ngân hàng bạn do đó giảm khả năng cạnh tranh. Vì vậy qua thực tiễn hoạt động thì Ngân hàng Nhà nước nên sửa đổi quy định về phương thức cho vay theo hướng cụ thể hoá để thống nhất phương thức cho vay trong các tổ chức tín dụng là một vấn đề cấp thiết, không để tình trạng tự quy định dẫn đến sự sai lệch về phương thức cho vay và quản lý vốn vay như hiện nay.

III/ Lãi suất tín dụng.

Như ta đã biết lãi suất chính là giá của quyền được sử dụng vốn mà người sử dụng phải trả cho người sở hữu nó trong một thời gian nhất định. Cái giá đó sẽ quyết định việc khách hàng có vay hay không, do vậy nó ảnh hưởng đến khả năng tín dụng ngân hàng. Để sử dụng có hiệu quả công cụ lãi suất trong phát triển tín dụng ta cần xem xét vấn đề sau:

1/Nguyên tắc xác định lãi suất tín dụng ngân hàng.

  • 1/ Những nguyên tắc xác định lãi suất hình thành theo cơ chế thị trường.

 

– Lãi suất huy động vốn < lãi suất cho vay. Điều này là đương nhiên nó cho phép đảm bảo tính có lợi nhuận của kinh doanh ngân hàng, đảm bảo cho các NHTM kinh doanh có lãi, từ đó mới có thể tồn tại và phát triển được.

  • Lãi suất tín dụng bao giờ cũng dương (lãi suất thực >0) và tối đa bằng suất lợi nhuận bình quân. Lãi suất thực phải >0 thì mới đảm bảo có lãi cho ngân hàng, và tối đa bằng suất lợi nhuận bình quân vì ngân hàng cũng là một ngành trong nền kinh tế.
  • Lãi suất phi kinh tế là lãi suất của tín dụng nặng lãi, nó rất cao so với mặt bằng lãi suất tín dụng bình thường và suất lợi nhuận bình quân, do đó khoản vốn vay này không thể sử dụng vào mục đích sản xuất kinh doanh mà chỉ sử dụng với mục đích phi sản xuất. Nó hoàn toàn phụ thuộc vào quan hệ cung cầu của nguồn vốn cho vay, khả năng chịu đựng của người đi vay và tính chất xã hội hoá hoạt động của màng lưới ngân hàng.

1.2/ Những nguyên tắc xác định lãi suất tín dụng theo luật định.

Trong nền kinh tế thị trường, thông thường ngân hàng trung ương ấn định thống nhất một khung lãi suất trong từng thời kỳ và các tổ chức tín dụng tự xác định lãi suất riêng theo quan hệ cung cầu trên thị trường. Ngân hàng trung ương xác định lãi suất theo nguyên tắc sau:

  • Với lãi suất huy động vốn.
  • Lãi suất tiền gửi không kỳ hạn < lãi suất tiền gửi có kỳ hạn.
  • Lãi suất tiền gửi của các tổ chức kinh tế < lãi suất tiền gửi của dân cư.
  • Lãi suất tiền gửi tiết kiệm của dân cư là cao nhất.
  • Với lãi suất cho vay.
  • Lãi suất cho vay ngắn hạn < lãi suất cho vay dài hạn.
  • Lãi suất cho vay các ngành sản xuất < lãi suất cho vay các ngành thương mại, dịch vụ.
  • Lãi suất các khoản cho vay đến hạn < lãi suất các khoản cho vay quá

hạn.

  • Lãi suất các khoản cho vay ưu đãi theo chính sách của Chính phủ là thấp

nhất.

2.Phân loại lãi suất.

Ở đây ta phân loại lãi suất dựa theo cách phân loại các hoạt động tín dụng.

  • Theo thời hạn tín dụng thì có lãi suất ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.

Đây là cách phân loại lãi suất theo độ dài thời gian mà ngân hàng cho các tác nhân và thể nhân khác trong nền kinh tế vay. Cơ sở của nguyên tắc này là ở

21

chỗ thời gian cho vay vốn càng dài thì lợi nhuận làm ra càng nhiều đồng thời tính rủi ro mất vốn càng cao do đó thời hạn càng dài thì giá của quyền sử dụng vốn càng cao. Do vậy, lãi suất cho vay dài hạn cao hơn lãi suất cho vay trung hạn, lãi suất cho vay trung hạn cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn.

Tuy nhiên trên thực tế nó còn phụ thuộc vào các mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội trong từng thời kỳ của mỗi quốc gia. Chính phủ dùng công cụ lãi suất để điều chỉnh cơ cấu sản xuất xã hội hay chống khủng hoảng khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh chẳng hạn, khi đó cần vốn cho xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng cơ bản, kiến thiết nền sản xuất… do đó lãi suất trung, dài hạn có khi lại thấp hơn so với ngắn hạn.

  • Xét theo tính chất của các ngành nghề sản xuất kinh doanh thì có các loại lãi suất sau: lãi suất cho vay kinh doanh, lãi suất cho vay nông nghiệp, lãi suất cho vay tiêu dùng, lãi suất cho vay bất động sản.

Lãi suất cho vay kinh doanh là lãi suất áp dụng cho các loại hoạt động kinh doanh, về mặt lý thuyết thì lãi suất này thường là thấp nhất trong số các loại lãi suất cho vay của NHTM vì thời hạn thu hồi vốn nhanh.

Lãi suất cho vay nông nghiệp: thường thì nó cao hơn lãi suất sản xuất kinh doanh vì nó có rủi ro khách quan lớn (do biến động của khí hậu, thời tiết, điều kiện tự nhiên, sâu bọ, bệnh tật mà con người không kiểm soát được)và quy mô sản xuất lại nhỏ hơn, và thời gian thu hồi vốn lâu hơn (do tính thời vụ trong nông nghiệp).

Lãi suất cho vay tiêu dùng: thường cao hơn các lãi suất cho khoản vay khác vì nó có quy mô nhỏ, rủi ro nhiều và khả năng trả nợ thấp.

Lãi suất cho vay bất động sản: lãi suất tương đối cao do bị ảnh hưởng bởi kỳ hạn vay, tỷ lệ cho vay, nhu cầu về thanh khoản và tính chất đảm bảo hay bảo hiểm bởi một cơ quan khác.

  • Ngoài ra còn các hình thức lãi suất phụ thuộc vào chính sách tín dụng của nhà nước như: lãi suất thông thường, lãi suất ưu đãi, lãi suất quá hạn, lãi suất co dãn hoặc lãi suất cứng.

3/ Các yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất.

Đối với các NHTM thì để đưa ra mức lãi suất nào cho thoả đáng với mỗi khoản vay thì cần phải xem xét các yếu tố sẽ ảnh hưởng tới lãi suất sau:

22

  • Điều kiện thị trường tiền tệ: nếu như ngân hàng phụ thuộc và khoản vốn huy động dưới dạng các chứng chỉ tiền gửi mệnh giá lớn hoặc tiền vay Chính phủ thì giá vốn huy động nó sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các điều kiện của thị trường tiền tệ, hơn nữa thị trường tiền tệ lại quyết định sức hấp dẫn của các dự án đầu tư, do đó nó ảnh hưởng đến lãi suất cho vay.
  • Rủi ro: cho vay là một hoạt động luôn mang tính rủi ro, và lãi suất sẽ thay đổi theo mức độ rủi ro. Món vay có khả năng rủi ro càng cao, thì yêu cầu lãi suất càng lớn và ngược lại.
  • Lãi suất cố định và lãi suất có thể điều chỉnh: một món vay không bị điều chỉnh lãi suất trong một thời gian càng dài thì rủi ro do những biến động trong tương lai của điều kiện thị trường tiền tệ càng lớn nên lãi suất cho vay yêu cầu càng cao. Mặc dù hệ thống lãi suất thả nổi hay có thể điều chỉnh là kém hấp dẫn theo quan điểm của một số doanh nghiệp, hay có thể tạo ra một số vấn đề về quản lý và tính toán đối với ngân hàng, nhưng chắc chắn nó thể hiện là cách tính lãi suất tốt nhất cho cả ngân hàng và doanh nghiệp.
  • Các chi phí hoạt động và quản lý: Để ngân hàng tồn tại và phát triển, ngân hàng phải bỏ ra các chi phí tiền lương, tiền thuê và các phương tiện… Do đó ngân hàng phải đạt được mức lợi tức đủ để trang trải các chi phí này và cần phải có lợi nhuận, tăng tích luỹ… vì vậy nó cũng ảnh hưởng đến việc xác định lãi suất.
  • Thời hạn hoàn trả: do trong thời gian dài sẽ có rất nhiều biến động trong tình hình tài chính của doanh nghiệp, hay giá trị của tài sản bảo đảm sẽ giảm sút, do đó rủi ro càng lớn yêu cầu lãi suất càng cao và ngược lại, thời hạn ngắn hơn thì lãi suất sẽ thấp hơn.
  • Cạnh tranh: trong nền kinh tế thị trường thì cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng gay gắt, để có thể cạnh tranh mỗi ngân hàng phải đưa ra mức lãi suất hợp lý để vừa đảm bảo thu hút khách hàng vừa đảm bảo lợi nhuận tối ưu.
  • Ngoài ra còn một số nhân tố khác như: các chính sách của Nhà nước (chính sách tiền tệ, chính sách tín dụng, chính sách lãi suất…); sự ổn định của nền kinh tế, lạm phát; tỷ suất lợi nhuận bình quân…
    • Hiện nay ở Việt Nam sau khi Nhà nước chuyển sang điều hành theo lãi suất cơ bản từ 2/8/2000 thì các NHTM có thể chủ động linh hoạt thay đổi lãi suất cho phù hợp với mỗi trường hợp cụ thể, vì vậy đã dẫn đến hiện tượng cạnh tranh

23

lãi suất làm lãi suất hạ rất thấp gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực như “phá giá” lãi suất, gây áp lực cho các ngân hàng nhỏ, đồng thời môi trường hoạt động khó khăn…Vì vậy các NHTM muốn cạnh tranh thì cũng cần phải quan tâm đến các loại hình cho vay và các yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất để có thể đưa ra những khung lãi suất các loại một cách đúng đắn sao cho đảm bảo được hiệu quả tín dụng, mở rộng tín dụng phải có lợi nhuận, đặc biệt quan tâm đến sự phát triển chung của nền kinh tế.

IV/ Chính sách tín dụng.

Một trong những phương pháp quan trọng nhất mà một ngân hàng có thể vận dụng để đảm bảo rằng các khoản cho vay của nó thoả mãn được những tiêu chuẩn do các cơ quan quản lý ngân hàng đặt ra là thiết lập một chính sách cho vay bằng văn bản. Mỗi một NHTM đều xây dựng cho mình một chính sách tín dụng riêng. Một chính sách tín dụng sẽ cung cấp cho cán bộ tín dụng và các nhà quản lý ngân hàng đường lối chỉ đạo cụ thể trong việc ra quyết định cho vay và xây dựng danh mục cho vay. Cấu trúc thực tế của danh mục cho vay sẽ phản ánh những gì mà chính sách cho vay của ngân hàng đặt ra. Nếu điều này không xảy ra thì đó là một chính sách cho vay không hiệu quả và nên xem xét lại. Thông thường một chính sách cho vay tốt gồm một số yếu tố quan trọng sau:

  • Một tuyên bố về tiêu chuẩn đối với danh mục cho vay của ngân hàng (ví dụ như nêu lên các đặc điểm của một danh mục cho vay chất lượng cao như loại hình, thời gian đáo hạn, quy mô và chất lượng của các khoản cho vay).
  • Một bản tiêu chuẩn chất lượng thích hợp áp dụng cho toàn bộ danh mục cho vay. Công bố mức giới hạn tối đa đối với tổng dư nợ.
  • Xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm đối với cán bộ tín dụng và ban thẩm định tín dụng. Giới hạn về trách nhiệm trong việc thực hiện các nhiệm vụ được giao và trong việc thông báo thông tin trong phạm vi phòng tín dụng.
  • Những thủ tục và hoạt động cần thiết cho việc chào mời, xem xét, đánh giá và ra quyết định đối với đơn xin vay của khách hàng.
  • Những tài liệu được yêu cầu phải kèm theo đơn xin vay và phải được lưu lại trong hồ sơ tín dụng của ngân hàng (báo cáo tài chính, thoả thuận cam kết…).

24

Những hướng dẫn về việc tiếp nhận, đánh giá và bảo quản tài sản thế chấp cho các món vay.

  • Một bản trình bầy về chính sách và thủ tục đối với việc xác định lãi suất cho vay, các khoản phí và thời hạn hoàn trả món vay.
  • Miêu tả rõ ràng thị trường tín dụng chính của ngân hàng.
  • Miêu tả các bước cần được tiến hành để phát hiện và phân tích những khoản cho vay có vấn đề…
    • Một chính sách cho vay rõ ràng sẽ mang lại nhiều lợi thế và thuận lợi cho ngân hàng. Nó hướng dẫn cho đội ngũ nhân viên tín dụng các thủ tục, các bước phải tuân thủ và chỉ rõ phạm vi trách nhiệm của họ. Nó giúp cho ngân hàng hướng tới một danh mục cho vay hiệu quả, có thể đạt nhiều mục tiêu như tăng cường khả năng sinh lợi, hạn chế rủi ro và đáp ứng được những đòi hỏi của cơ quan quản lý.

Đối với Việt Nam để phục vụ tốt cho mục tiêu phát triển kinh tế, chính sách tín dụng đã và đang được đổi mới đồng bộ và hữu hiệu đáp ứng các yêu cầu mới, tạo bước đột phá trong việc khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn nội lực và nguồn lực bên ngoài. Để nền kinh tế có tăng trưởng cao, chính sách tín dụng của các ngân hàng nên tập trung vào việc mở rộng đáp ứng các nhu cầu vay vốn có hiệu quả với phương châm không để các dự án đầu tư có hiệu quả bị thiếu vốn. Cơ cấu tín dụng cần tiếp tục chuyển dịch có lợi cho đầu tư và phát triển, tăng cường cho vay trung và dài hạn. Không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng, giảm tỷ lệ nợ quá hạn và nợ khó đòi xuống mức lành mạnh theo tiêu chuẩn quốc tế, tăng vòng quay và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của xã hội. Tiếp tục mở rộng đối tượng cho vay đến tất cả các thành phần kinh tế, chú ý thích đáng việc cho vay đối với nông dân và các đối tượng chính sách góp phần khuyến khích phát triển kinh tế đồng đều giữa các vùng, địa phương.

V/ Rủi ro tín dụng.

  • Việt Nam từ khi chuyển sang nền cơ chế thị trường, sự ra đời và phát triển các loại hình ngân hàng và các tổ chức tín dụng, tính đa dạng của các hoạt động và hình thức tín dụng đã tạo nên một thị trường tín dụng phong phú và sôi động. Nhưng điều đó cũng chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro có thể xẩy ra với các ngân hàng và nhất là rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng là tình trạng người đi vay

25

không có khả năng hoàn trả được hoặc lãi hoặc gốc hoặc cả lãi và gốc một cách đầy đủ và đúng hạn.

1/ Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng đối với các NHTM.

Nếu một khoản vay nào đó bị thất thoát, không thu hồi được, thì ngân hàng phải sử dụng nguồn vốn của mình để trả cho người gửi tiền. Vì vậy nếu xảy ra quá nhiều rủi ro trong hoạt động tín dụng mà ngân hàng phải dùng vốn của mình để trang trải cho các khoản thất thoát này thì đến một chừng mực nào đó sẽ không thể thực hiện việc “xoá sổ” những khoản thất thoát này nữa và ngân hàng có thể bị lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán cho người gửi tiền thậm chí dẫn đến phá sản.

2/ Nguyên nhân của rủi ro tín dụng.

Rủi ro tín dụng xảy ra rất phức tạp và đa dạng, nó có thể do khách hàng mất khả năng trả nợ hay do họ cố ý chây ỳ, tìm cách lừa đảo chiếm đoạt vốn của ngân hàng. Nguyên nhân rủi ro tín dụng thì có nhiều nhưng người ta thường chia làm 2 loại nguyên nhân rủi ro xuất phát từ các hành động có thể kiểm soát và không thể kiểm soát.

  • Những nguyên nhân có thể kiểm soát:
  • Quyết định cho vay sai lầm từ ban đầu do khâu phân tích thu thập thông tin không đủ hay sai lầm, hoặc việc xây dựng ký kết hợp đồng có sự khó hiểu thiếu sót.
  • Không nhận ra các dấu hiệu cảnh báo.
  • Không có khả năng theo sát kiểm soát các khoản vay.
  • Không hành động kịp thời khi phát hiện khoản nợ có vấn đề.
  • Những nguyên nhân không thể kiểm soát được:
  • Sự phá sản của các doanh nghiệp vay nợ, hay hoạt động sản xuất kinh doanh kém hiệu quả do quản lý không tốt, sản phẩm công nghệ lạc hậu, thiếu vốn và khả năng cạnh tranh yếu…
  • Một số nguyên nhân bất ổn khác từ bên ngoài như khách hàng gặp rủi ro bất chợt nên chưa thể trả nợ ngay, hay tài sản cầm cố thế chấp bị mất giá trị …

khiến ngân hàng không thể thu hồi được khoản nợ…

26

Việc phân loại theo các nguyên nhân có thể kiểm soát hay không thể giúp cho ngân hàng định hướng được việc ngăn chặn rủi ro tập trung vào những rủi ro mà nguyên nhân có thể kiểm soát. Trước hết là hệ thống các thể chế tạo hành lang và môi trường hoạt động an toàn và hiệu quả của tín dụng. Sau đó là các quy định điều kiện cụ thể đối với mỗi loại vay, mỗi đối tượng vay, để xác định các điều kiện và hình thức về giá trị vật chất, giá trị uy tín làm đảm bảo vốn vay tuỳ theo năng lực tài chính, tính chất và loại hình sản xuất kinh doanh, uy tín và mức độ rủi ro của người vay. Đối với rủi ro bất khả kháng, các ngân hàng chỉ có cách chống đỡ bằng việc thành lập các dự phòng tài chính, đủ khả năng chống đỡ cho mọi rủi ro có thể xẩy ra bất kỳ lúc nào. Khả năng dự phòng càng cao, tính chủ động chống đỡ rủi ro càng lớn.

3/ Một số nguyên tắc đảm bảo an toàn tín dụng.

Để phòng tránh rủi ro trong hoạt động tín dụng, hiện nay các ngân hàng đã và đang thực hiện một số nguyên tắc đảm bảo an toàn tín dụng sau:

  • Mở rộng tín dụng trên cơ sở nâng cao chất lượng tín dụng. Việc mở rộng khối lượng tín dụng là cần thiết để mở rộng kinh doanh, song vấn đề chất lượng tín dụng mới có ý nghĩa quyết định sự tồn tại và phát triển thực chất của ngân hàng. Chất lượng tín dụng chính là kết quả của các khoản tín dụng được thực hiện trọn vẹn, người vay thực hiện đúng các cam kết và ngân hàng thu được gốc và lãi đúng hạn. Vì vậy, khi phân tích mức độ rủi ro mà ngân hàng có thể gặp phải khi cho vay cần phải suy xét kỹ càng về kinh nghiệm quản lý, tiềm năng, các chính sách, khả năng sinh lời, luân chuyển vốn và giá trị thực của khách hàng. Cán bộ tín dụng phải xem xét và tự đưa ra quyết định cho rằng nên cho khách hàng vay bao nhiêu, mục đích khoản vay và thời gian thu hồi nợ.
  • Hiệu quả và chất lượng tín dụng dựa trên cơ sở hiệu quả của sản xuất kinh doanh của người vay vốn. Khi người vay vốn hoạt động sản xuất kinh doanh không có hiệu quả dẫn đến tình trạng thua lỗ sẽ là nguyên nhân trực tiếp làm cho các khoản tín dụng không được thực hiên đúng hạn, do đó ngân hàng có thu được gốc và lãi hay không là phụ thuộc chủ yếu vào việc người vay vốn sử dụng vốn có hiệu quả hay không.

27

  • Quyết định cho vay trên cơ sở phải xác định và hiểu rõ người vay. Việc tìm hiểu và đánh giá người vay cần được xem xét trên nhiều mặt. Trước hết là phẩm chất đạo đức kinh doanh, tính trung thực trong quan hệ kinh tế, tính nghiêm túc trong việc chấp hành luật lệ. Thứ hai là người vay vốn phải có đủ năng lực pháp lý và năng lực tài chính để sử dụng tiền vay và thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết đối với khoản vay. Thứ ba là đảm bảo xây dựng được các phương án dự phòng trả nợ.
  • Cho vay phải do chính ngân hàng quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định đó. Việc có cho vay hay không là một quyết định mang tính độc lập, không hề chịu ảnh hưởng bởi những người có liên quan và ngân hàng phải cảm thấy thoải mái khi đưa ra quyết định cho vay. Mọi sự can thiệp bên ngoài đối với mỗi khoản cho vay đều phi kinh tế, thiếu tính nghiệp vụ ngân hàng, thường đưa đến những sai lầm và gây ra những tổn thất, do đó khi ngân hàng chịu trách nhiệm hoàn toàn về những khoản cho vay, thì ngân hàng cũng phải hoàn toàn chủ động với quyết định của các khoản vay đó.
  • Chủ động phân tán rủi ro để ngăn ngừa và hạn chế rủi ro. Việc phân tán rủi ro được thực hiện thông qua phân tán dư nợ và cộng đồng tài trợ. Cụ thể là mỗi ngân hàng không nên tập trung quá nhiều vốn cho một người vay, những dự án lớn cần huy động nhiều ngân hàng tham gia tài trợ và cùng quản lý vốn cho vay, hạn chế cho vay trong các lĩnh vực có tỷ lệ rủi ro cao. Nhờ đó sẽ phân tán rủi ro, tránh tập trung rủi ro lớn vào một ngân hàng, làm cho ngân hàng có nguy cơ đổ vỡ ảnh hưởng đến môi trường kinh tế chung. Phân tán rủi ro là một yêu cầu và xu thế quan trọng của mỗi NHTM hiện nay.
  • Cho vay phải có đảm bảo tiền vay với tính khả thi cao. Trong các điều kiện vay vốn thì điều kiện về đảm bảo tiền vay được coi là quan trọng nhất. Đảm bảo có thể bằng cầm cố, thế chấp hay bảo lãnh để phòng khi khách hàng không có khả năng trả nợ thì có thể dùng tài sản bảo đảm trả nợ thay. Vì vậy bản thân tài sản phải có giá trị, và bản thân nó phải trở thành hàng hoá để có thể chuyển thành giá trị để trả nợ ngân hàng, đồng thời tài sản phải có giá trị lớn hơn giá trị khoản vay, và có thị trường tiêu thụ hàng hoá đó để thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
  • Trên thực tế, ở Việt Nam hiện nay việc tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc bảo đảm tín dụng là một vấn đề rất quan trọng để tránh được rủi ro tín dụng.

28

Theo số liệu do NHNN công bố đến đầu năm 2001 kết quả phân tích, đánh giá của NHNN đối với nợ xấu của các NHTM trên toàn quốc là 15 nghìn tỷ đồng, tương đương với 1 tỷ USD, tuy nhiên nguồn tin từ các tổ chức tài chính quốc tế đánh giá có thể lên đến 2-3 tỷ USD. Như vậy rủi ro tín dụng ở Việt nam là rất lớn, đó là do việc chấp hành các nguyên tắc đảm bảo tín dụng còn lỏng lẻo như: chất lượng tín dụng của các NHTM còn thấp, tỷ lệ nợ quá hạn còn cao; việc quyết định cho vay còn chịu nhiều can thiệp từ bên ngoài, điển hình là việc các cơ quan chính quyền các cấp đề nghị, thậm chí yêu cầu ngân hàng phải đáp ứng nhu cầu về vốn nào đó vì quyền lợi của người vay…; hay các tài sản đảm bảo nợ vay khi phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì lại không thể hoán chuyển thành giá trị được, tức là không thể bán để thu hồi nợ khi các ngân hàng phát mại tài sản đó. hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng còn kém hiệu quả do nhiều lý do về trình độ, môi trường kinh doanh, pháp lý…; đồng thời môi trường kinh doanh của nước ta còn kém, doanh nghiệp làm ăn có lãi thì ít hơn là các doanh nghiệp sản xuất cầm chừng, không có lãi thậm chí lỗ, hay do pháp luật còn nhiều kẽ hở khiến nhiều doanh nghiệp gian lận, lừa đảo. Vì vậy đã xảy ra những vụ rủi ro tín dụng lớn như trong vụ án TAMEXCO, Minh Phụng – Epco… mà đó chính là một bài học đắt giá cho các NHTM Việt Nam.

Chính vì vậy việc nhận biết và nghiên cứu kỹ các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng, các loại rủi ro, cách phát hiện, xử lý rủi ro cũng như đảm bảo thực hiện một cách nghiêm túc nguyên tắc an toàn tín dụng là những vấn đề hết sức quan trọng đối với các NHTM ở Việt Nam hiện nay. Các NHTM cần phải tăng cường các hoạt động này nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của mình cũng như hiệu quả hoạt động của nền kinh tế.

29

CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRONG CÁC NHTM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG.

I/ Những thuận lợi và một số thách thức trong hoạt động tín dụng ngân hàng.

1/ Một vài nét về cơ sở pháp lý của hoạt động tín dụng ở Việt Nam hiện nay.

Hiện nay môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng được hoàn thiện, đầy đủ, rõ ràng chặt chẽ và phù hợp với thông lệ quốc tế hơn. NHNN đã chỉnh sửa, bổ sung, ban hành mới một loạt quyết định, thông tư phù hợp với cơ chế hiện nay; những vướng mắc, sơ hở, chồng chéo của cơ chế cũ đã được tháo gỡ, bãi bỏ làm cho hoạt động tín dụng được thuận lợi hơn, tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các tổ chức tín dụng. Một số văn bản pháp lý quan trọng được tập trung ban hành trong thời gian qua bao gồm:

Các văn bản quy phạm pháp luật về biện pháp bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng như: Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ “về đảm bảo tiền vay của TCTD”; Quyết định số 266/2000 của NHNN, ngày 18/8/2000 về việc cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối với NHTM cổ phần, công ty tài chính cổ phần và ngân hàng liên doanh; Quyết định số 283/2000 ngày 25/8/2000 Của NHNN, ban hành quy chế bảo lãnh ngân hàng; Thông tư số 06/2000 ngày 4/4/2000 và Thông tư số 10/2000 ngày 31/8/2000 của NHNN, hướng dẫn thực hiện bảo đảm tiền vay của TCTD…

Về xử lý tài sản đảm bảo của ngân hàng thì có Thông tư liên tịch số 03/2001/ TTLT-NHNN-BTP-BCA-BTC-TCĐC được ban hành ngày 23/04/2001 hướng dẫn việc xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ cho các TCTD.

Về một số hoạt động khác của tín dụng thì có Quyết định số 67/1999/QĐ-TTg được Chính phủ ban hành ngày 30/3/1999 về “Một số chính sách tín dụng Ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn”; NHNN ban hành Quyết định số 428/2000 ngày 22/9/2000 về chính sách tín dụng ngân hàng đối với kinh tế trang trại; Ngày 29/6/1999 Chính phủ đã ra Nghị định 43/1999/NĐ-CP “về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước”; Quyết định số 48/1999/QĐ-NHNN5 về việc phân loại tài sản Có, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi

30

ro trong hoạt động ngân hàng được Thống đốc NHNN ban hành ngày 8/2/1999; Quyết định số 418/2000 ngày 21/9/2000 về đối tượng cho vay bằng ngoại tệ…

Một số văn bản chung quan trọng khác như: Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam do Quốc hội ban hành quy định về Ngân hàng Nhà nước; Luật các tổ chức tín dụng của Quốc hội ban hành được chủ tịch nước công bố ngày 26/12/1997, luật này quy định về tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác; Quyết định số 324/1998/QĐ-NHNN1 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành về Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng…

Từ các văn bản quy phạm pháp luật chung, mỗi ngân hàng lại tự ban hành cho mình những văn bản cụ thể riêng để điều hành, quản lý hoạt động của mình. Ví dụ như NHNO&PTNT VN có một số văn bản sau: Quyết định số 180/QĐ/HĐQT về việc ban hành quy định cho vay đối với khách hàng và có Quy định cho vay đối với khách hàng ban hành kèm theo quyết định này; Hướng dẫn thẩm định, tái thẩm định các điều kiện vay vốn của doanh nghiệp; Hướng dẫn nội dung thẩm định cho vay đối với hộ gia đình, cá nhân, tổ hợp tác…

Với các văn bản về cơ chế, chính sách nói trên, ngoài ra còn có thêm nhiều văn bản pháp luật về các vấn đề liên quan cũng được bổ sung và sửa đổi khiến cho hoạt động tín dụng đã được phát triển lành mạnh và an toàn hơn. Tạo điều kiện cho các NHTM mạnh dạn hơn trong hoạt động cho vay góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế.

2/ Những thuận lợi cho hoạt động tín dụng ngân hàng trong giai đoạn hiện nay.

Trong những năm qua, bối cảnh kinh tế nước ta xuất hiện nhiều yếu tố thuận lợi cho việc phát triển hoạt động tín dụng. Nền kinh tế nước ta tăng trưởng khá, tiêu biểu là hoạt động xuất nhập khẩu, có nguyên nhân quan trọng từ các giải pháp tiền tệ tín dụng; đồng thời đó cũng là tiền đề cho tăng trưởng tín dụng an toàn. Đặc biệt tăng trưởng cao về kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng rau quả, thuỷ sản, hạt điều…đây là thuận lợi cho vốn tín dụng của các NHTM đầu tư trong các khâu sản xuất như thuê mua, chế biến, xuất khẩu… Các ngành trước đây hoạt động thua lỗ, nợ đọng vốn với ngân hàng lớn như xi măng, mía đường,…thì nay giá bán đã cải thiện, tình hình khả quan hơn, tiền vốn vay và lãi

31

treo đã thu hồi được. Sự phát triển kinh tế sẽ tạo điều kiện cho việc phát triển tín dụng, mở rộng tín dụng và nâng cao chất lượng tín dụng.

Môi trường vĩ mô cho hoạt động tín dụng ngân hàng dần dần đi vào ổn định, rõ ràng và an toàn hơn, thể hiện các đối tượng khách hàng sau:

  • Các doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp lại. Một số doanh nghiệp được cổ phần hoá và nhiều doanh nghiệp đã khẳng định được hiệu quả của mình.
  • Luật doanh nghiệp mới ban hành có hiệu lực thi hành từ 1/1/2000. Theo số liệu của Bộ kế hoạch và đầu tư, tính đến hết tháng 11/2000 trong cả nước đã có trên 12000 doanh nghiệp với đủ các loại hình được thành lập mới với tổng số vốn đăng ký trên 10000 tỷ đồng. Do đó tư cách pháp lý, số vốn tự có thực sự…

của doanh nghiệp được khẳng định.

  • Các hộ gia đình ở nông thôn đang định hình rõ nét: hộ làm ngành nghề, hộ sản xuất tiểu thủ công nghiệp, hộ kinh doanh dịch vụ, hộ có trang trại, hộ nuôi trồng thuỷ sản… Ngành chức năng đã ban hành tiêu chí cụ thể xếp loại trang trại, từ đó có các quy chế cụ thể về hoạt động tín dụng thực hiện đối với họ.

3/ Một số thách thức mới trong hoạt động tín dụng ngân hàng.

Những năm gần đây, điểm nổi bật trong hoạt động kinh doanh của các NHTM là thay đổi cơ cấu thu nhập, nhất là đối với các NHTM có quy mô lớn. Nhìn chung tỷ trọng doanh thu từ hoạt động tín dụng giảm xuống ở hầu hết các ngân hàng, thu từ dịch vụ và nghiệp vụ khác như nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ, dịch vụ thanh toán, đầu tư vào giấy tờ có giá…tăng lên. Tuy nhiên hoạt động tín dụng vẫn là hoạt động chính của các NHTM. Trong giai đoạn hiện nay đã xuất hiện một số thách thức đáng lưu ý sau:

Với cơ chế điều hành lãi suất cơ bản từ đầu tháng 8/2000 của NHNN, đã thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động cạnh tranh về lãi suất, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh trong lĩnh vực tín dụng giữa các NHTM, tuy nhiên nó lại dẫn đến những khó khăn cho các NHTM cổ phần quy mô nhỏ.

Cạnh tranh về cung cấp vốn đầu tư, trong khi tổng đầu tư xã hội sụt giảm thì đầu tư của Nhà nước lại tăng nhanh, nhưng trong tổng nguồn vốn đầu tư chỉ có khoảng 10% là vốn huy động trong nước còn lại là nguồn vốn ODA, vốn đầu tư, tài trợ nước ngoài. Sự hiện diện của các nguồn vốn ưu đãi quốc tế rõ ràng sẽ làm giảm các cơ hội cung cấp tín dụng của các NHTM.

32

Tuy nền kinh tế tăng trưởng khá nhưng lại xuất hiện một số khó khăn mới như các ngành trước đây có kim ngạch xuất khẩu cao như hàng dệt may, giày da… nhưng năm 2000 lại không đạt kế hoạch, diễn biến không ổn định làm ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả thực hiện các hợp đồng tín dụng. Trước đây một số lĩnh vực có kim ngạch xuất khẩu lớn như gạo, cà phê…thì giờ lại gặp khó khăn làm cho vốn tín dụng cho vay cũng phải giãn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ, khoản cho vay cũ chưa thu được lại phải cho vay mới. Nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long do lũ lụt đã gây ảnh hưởng lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh làm cho số vốn phải khoanh nợ, giãn nợ lên tới gần 1000 tỷ đồng. Đồng thời thị trường cũng bị ảnh hưởng biến động, khó dự đoán, gây áp lực lên chất lượng tín dụng ngân hàng.

Tính rủi ro đối với hoạt động tín dụng có xu hướng tăng lên, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường rủi ro đạo đức là rất lớn, do chính cán bộ tín dụng trong việc thực hiện các thể lệ chế độ gây ra. Dư nợ tiếp tục tăng nhanh trong khi số lượng cán bộ tín dụng hầu như không tăng, điều kiện giao thông nông thôn, miền núi không được cải thiện làm tăng lên áp lực quá tải của cán bộ tín dụng.

Đó chính là một số thuận lợi và thách thức đối với các NHTM trong hoạt động tín dụng hiện nay, họ phải biết tận dụng và phát huy những thuận lợi và dám đương đầu với những thách thức để đưa hoạt động tín dụng tăng trưởng có hiệu quả và khẳng định được vai trò của mình trong thời đại mới.

II/ Thực trạng tín dụng ở các NHTM Việt Nam.

1/ Một số kết quả đạt được.

-Ước tính đến hết tháng 12/2000, dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng đối với nền kinh tế tăng 21% so với cuối năm 1999, tăng đáng kể so với mức tăng 19,1% của năm 1999;16,4% của năm 1998. Đồng thời ước tính tỷ lệ nợ quá hạn chỉ ở mức 11,7%, giảm gần 1,28% so với 13,5% của năm 1999. Và trong 6 tháng đầu năm nay tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng đối với nền kinh tế khoảng 9,1% so với 31/12/2000, so với cùng kỳ tăng 24,5%. Như vậy hoạt động tín dụng của các NHTM đã ngày càng được mở rộng.

-Từ 2/8/2000 NHNN chuyển sang điều hành theo lãi suất cơ bản, các ngân hàng chủ động linh hoạt quy định lãi suất cho vay theo quan hệ với khách hàng, lãi suất cho vay của ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh giảm xuống

ngang hàng với DNNN, lãi suất cho vay linh hoạt theo diễn biến cung cấp vốn, theo yêu cầu của thị trường và khách hàng, làm cho tín dụng được mở rộng, và đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu vốn của các doanh nghiệp.

  • Hiện nay, các NHTM đã quan tâm đến việc thiết kế các loại sản phẩm tín dụng bán ra, quan tâm đến sức mua của khách hàng. Như ngân hàng Á Châu và Ngân hàng Sài Gòn thương tín là 2 ngân hàng có nhiều sản phẩm được “thiết kế” khá công phu và được khách hàng tiếp nhận như: cho vay theo dự án BOT, cho vay mua hàng trả góp, cho vay đối với CBCNVC trả dần từ lương, cho vay hộ kinh doanh ở các chợ trả lãi và góp vốn mỗi ngày, mỗi tuần. Ngoài ra còn có thẻ tín dụng thấu chi cho một số khách hàng, bên cạnh đó còn có cả dự án cho vay mua nhà trả góp với thời hạn cho vay lên đến 10 năm. Tóm lại, đã có nhiều loại cho vay cụ thể để khách hàng lựa chọn sản phẩm phù hợp với yêu cầu và khả năng của họ.
  • Thực hiện theo đúng đường lối chính sách đổi mới của Đảng về nội dung cơ bản của CNH, HĐH trong những năm còn lại của thập niên 90 là: “Đặc biệt coi trọng hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn; phát triển toàn diện nông, lâm,

ngư nghiệp gắn liền với công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản”, hệ thống ngân hàng nhất là NHNO& PTNT đã tăng cường đầu tư cho khu vực nông nghiệp nông thôn. Ước tính đến hết tháng 6/2001, dư nợ cho vay khu vực này

đạt khoảng 48500 tỷ đồng, tăng 12,7% so với 31/12/2000, tỷ lệ nợ quá hạn chiếm 4,6%. Cụ thể: NHNO&PTNT cho vay 32300 tỷ đồng, Ngân hàng Công thương 3000 tỷ đồng, Ngân hàng ngoại thương1900 tỷ đồng… So với tốc độ tăng trưởng tín dụng chung của cả nước thì khu vực nông nghiệp và nông thôn có tốc độ tăng trưởng khá hơn.

  • Thực tế từ khi ra đời và đi vào hoạt động cho đến nay, ngân hàng người nghèo (NHNg) đã thực hiện cho người nghèo vay với lãi suất ưu đãi (lãi suất

thấp hơn nhiều so với lãi suất thị trường, chỉ bằng khoảng 60%-80% lãi suất của NHNO&PTNT cùng thời kỳ). Cụ thể, hiện nay NHNO&PTNT cho vay 1,0% thì NHNg cho vay là 0,7%. Nhờ vậy, nó đã giúp người nghèo khắc phục được những khó khăn, giảm chi phí sản xuất kinh doanh, khuyến khích được các hộ nghèo mạnh dạn tính toán vay vốn để phát triển sản xuất kinh doanh. Và đã đạt được một số kết quả khá khả quan, tính đến 30/9/2000 đã có hơn 5,3 triệu lượt

34

hộ nghèo nhận được vốn tín dụng với tổng số tiền là 8396 tỷ đồng đầu tư vào sản xuất đạt hiệu quả, và ngân hàng cũng đã thu được nợ đạt 4017 tỷ đồng.

  • Bên cạnh đó ngân hàng còn cho vay phục vụ các đối tượng chính sách và chương trình phát triển kinh tế của Chính phủ đã mang lại hiệu quả rõ rệt về mặt xã hội, thông qua các chương trình như: Cho vay khắc phục hậu quả cơn bão số 5; cho vay tôn nền và làm sàn nhà trên cọc, chương trình một triệu tấn đường, chương trình đánh bắt cá xa bờ… nhờ đó đã giúp đồng bào sông Cửu Long khắc phục hậu quả lũ lụt, hay vực dậy và phát triển đội tàu thuyền đánh bắt cá xa bờ, xây dựng các vùng mía nguyên liệu…

2/ Những vấn đề còn tồn tại.

  • Mức tăng trưởng tín dụng trong hệ thống ngân hàng vẫn còn chậm, mức tăng trưởng tín dụng thấp hơn tốc độ tăng trưởng vốn huy động, một số nguyên nhân chính là do: nhiều công ty làm ăn thua lỗ, phá sản, hàng loạt vụ án lớn đối với doanh nghiệp vay vốn bị đưa ra xét xử khiến ngân hàng e ngại không dám mở rộng cho vay như trước. Nhiều doanh nghiệp chưa đủ điều kiện pháp lý đảm bảo an toàn cho vay, không có dự án khả thi nên khó tiếp cận với vốn ngân hàng. Ngoài ra còn một số ngành trước đây tăng trưởng khá thì nay lâm vào tình trạng khó khăn do biến động của thị trường hay rủi ro thiên tai. Vì vậy ngân hàng gặp khó khăn trong phát triển tín dụng.
  • Từ 2/8/2000 khi NHNN áp dụng điều hành theo lãi suất cơ bản, dẫn đến tình trạng cạnh tranh lãi suất. Bên cạnh một số mặt tích cực cũng đang bộc lộ một số tồn tại đáng lo ngại như: Hạ lãi suất theo kiểu “phá giá”. Theo quy định của NHNN thì lãi suất cơ bản hiện nay là 0,75%/tháng với biên độ giao động tối đa tới 0,5%/tháng. Tuy vậy đã có NHTM hạ lãi suất cho vay xuống còn 0,6%/tháng, thậm chí thấp hơn cả lãi suất cho vay người nghèo. Với lãi suất đầu vào còn cao như hiện nay rõ ràng với lãi suất đó chỉ có tác dụng lôi kéo khách

hàng chứ không thu được lợi nhuận, và nó sẽ gây khó khăn cho các ngân hàng có môi trường kém thuận lợi hơn như NHNO&PTNT. Vì cạnh tranh các ngân hàng sẽ nới lỏng các điều kiện vay vốn như quy trình thẩm định cho vay, bảo đảm tiền vay như vậy sẽ dẫn đến những rủi ro tín dụng tiềm tàng, hậu quả khó lường. Đồng thời khách hàng sẽ lợi dụng đòi hạ lãi suất, nới lỏng điều kiện vay vốn, vay của ngân hàng này với lãi suất thấp hơn để trả cho ngân hàng kia.

35

  • Trong nền kinh tế thị trường tính rủi ro đối với hoạt động tín dụng có xu hướng tăng lên. Thể hiện ở chỗ tổng số vốn bị nợ quá hạn tăng lên, bên cạnh đó xuất hiện một loạt khoản nợ khoanh mới không thể hiện trong tỷ lệ nợ quá hạn; xuất hiện các khoản dư nợ được điều chỉnh kỳ hạn, được giãn nợ…mà cũng còn nằm ngoài tỷ lệ nợ quá hạn. Hiện nay vấn đề nợ tồn đọng, xử lý nợ xấu là vấn đề rất khó khăn và cần phải tiếp tục giải quyết. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ có chiều hướng giảm nhưng giá trị tuyệt đối lại tăng lên. Tiến độ xử lý các khoản nợ có liên quan tới vụ án và việc phát mại tài sản thế chấp để thu hồi nợ xấu phát sinh từ những năm trước, mặc dù đã được sự quan tâm chỉ đạo của Chính phủ, nhưng kết quả đạt được là chậm so với yêu cầu đặt ra. Cơ sở pháp lý cho việc xử lý tài sản thế chấp liên quan đến nợ xấu hiện nay còn chưa đồng bộ, nhiều khách hàng cố tình gây cản trở việc phát mại tài sản, không giao nộp tài sản thế chấp cho ngân hàng, hay trốn chạy khiến cho việc xử lý, thu hồi nợ xấu gặp nhiều khó khăn, vướng mắc.
  • Mặc dù một số ngân hàng đã có quan tâm đến việc đưa ra những loại cho vay cụ thể phù hợp với yêu cầu khách hàng nhưng trên thực tế hiện nay các loại cho vay của ta còn quá nghèo nàn, hầu như chỉ bán ra những gì mà ngân hàng có mà không thật quan tâm đến cái mà khách hàng cần. Trong khi ngân hàng thiết kế công phu các thể lệ huy động vốn bao nhiêu thì các sản phẩm đầu ra lại đơn điệu bấy nhiêu, có những ngân hàng mà huy động loại nào thì cho vay loại đó, ví dụ như vốn huy động 6 tháng thì cho vay 5 tháng 25 ngày. Một số NHTM thường ít áp dụng phương thức cho vay luân chuyển mà chỉ cho vay theo từng món độc lập vì thế vốn tín dụng thường không tiếp cận kịp thời với đối tượng cho vay. Như vậy, thực tế hiện nay các khách hàng hầu như ít có cơ hội lựa chọn, nhiều khách hàng cần vốn dài hạn nhưng bắt buộc phải vay vốn ngắn hạn để đầu tư dài hạn dẫn đến tình trạng lúng túng về tài chính. Đây cũng là điều bất cập mà ngay cả ngân hàng cũng lúng túng khi khách hàng đáo hạn phải dàn xếp cho khách hàng gia hạn hay đảo nợ mà đáng lẽ các ngân hàng có thể khắc phục được bằng việc đưa ra các loại cho vay phù hợp với yêu cầu của khách hàng.

-Tuy tín dụng ngân hàng phục vụ đối tượng chính sách đạt được những kết quả đáng khích lệ nhưng nó vẫn còn một số tồn tại vướng mắc, nhất là khả năng thu hồi vốn rất thấp, nợ quá hạn ngày càng gia tăng. Nhiều ngân hàng chỉ thu

36

được một phần số lãi phát sinh, còn vốn gốc chỉ thu được một tỷ lệ không đáng kể. Thực trạng này đã không những làm suy yếu năng lực tài chính của NHTM mà nguy hại hơn, đã hình thành tư tưởng ỷ lại trong một bộ phận dân cư, cho rằng đó là nguồn vốn ưu đãi của Chính phủ nên chậm hoàn trả nợ ngân hàng khi đến hạn. Hậu quả là việc cho vay chính sách đã mang lại gánh nặng tài chính cho chính các ngân hàng thực thi chính sách này.

  • Ngoài ra còn một số khó khăn về cán bộ tín dụng, tình trạng quá tải của cán bộ tín dụng hiện nay là một thực tế phổ biến, gây nhiều khó khăn trong hoạt động ngân hàng. Đồng thời trình độ cán bộ tín dụng còn hạn chế, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, nên việc thẩm định cho vay có trường hợp không đầy đủ, đúng quy trình…

3/ Một số giải pháp khắc phục những vấn quả của hoạt động tín dụng ngân hàng hiện

 

đề còn tồn tại và nâng cao hiệu nay.

 

Trên đây ta đã thấy một số mặt được và chưa được trong hoạt động tín dụng của hệ thống NHTM, để nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng trong nền kinh tế nước ta hiện nay thì cần tập trung giải quyết các vấn đề còn tồn tại theo một số giải pháp sau:

  • Để có thể mở rộng tín dụng, mỗi NHTM cần phải xây dựng cho mình một chính sách tín dụng riêng, xác định rõ chiến lược phát triển, xây dựng chiến lược kinh doanh trước mắt và lâu dài.

Tăng cường công tác quảng cáo, tiếp thị phù hợp với chiến lược khách hàng của từng NHTM, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Tăng cường cho vay đối với tất cả các thành phần kinh tế, đồng thời xây dựng nhiều phương thức cho vay mới, đa dạng phù hợp với nhiều loại khách hàng. Các chi nhánh NHTM trên địa bàn cần kịp thời phát hiện, xử lý và tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cụ thể trên địa bàn mình. Đồng thời các cấp lãnh đạo, quản lý cũng cần có những sửa đổi bổ sung cơ chế chính sách có liên quan một cách kịp thời và đúng đắn.

Về mặt cán bộ ngân hàng nói chung và cán bộ tín dụng nói riêng cần tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng trình độ cán bộ theo nhiều phương thức, công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ… Do đặc điểm của tín dụng là cơ chế chính sách thay đổi thường xuyên, nên mỗi khi có các văn bản bổ sung sửa đổi mới cần

được tổ chức phổ biến, đào tạo ngắn ngày cập nhật thông tin cho cán bộ nghiệp vụ.

  • Đối với vấn đề lãi suất, nhằm khắc phục những hạn chế trong cạnh tranh lãi suất cần thực hiện một số biện pháp sau: NHNN cần ban hành lãi suất sàn trong cho vay để đảm bảo thực thực thi công cụ lãi suất, đem lại môi trường kinh doanh bình đẳng hơn cho cả ngân hàng và doanh nghiệp. Đẩy mạnh kích cầu qua tín dụng ngân hàng, làm đòn bẩy cho tăng trưởng kinh tế, nâng cao tỷ suất lợi nhuận trong kinh doanh nói chung; từ đó mở rộng đầu tư cho tín dụng ngân hàng, khơi thông dòng chảy tiền tệ trong nền kinh tế. Các NHTM cần mở rộng các hình thức cạnh tranh mang tính chủ động thông qua chất lượng và công nghệ, do đó các NHTM cần chủ động cải tiến chất lượng, quy trình tín dụng và các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế, cải tiến chất lượng phục vụ, đồng thời phải nghiên cứu áp dụng công nghệ mới trong hoạt động ngân hàng, cải tiến các vấn đề nhân sự, chi phí quản lý…giảm tối đa chi phí kinh doanh. Ngoài ra còn cần phải chú trọng đến công tác tiếp thị thường xuyên lắng nghe, thấu hiểu khách hàng. Mở rộng tín dụng đến nhiều đối tượng khách hàng, đa dạng hoá các loại hình tín dụng để tăng trưởng tín dụng cân bằng với huy động vốn… nói chung có nhiều biện pháp nhằm khắc phục hạn chế của cạnh tranh lãi suất, tuy nhiên áp dụng linh hoạt biện pháp nào và vào khi nào, nơi nào cụ thể thì phải tuỳ theo đặc điểm, tính chất hoạt động của từng NHTM.
  • Về việc xử lý nợ xấu thì cần có giải pháp đồng bộ và hữu hiệu nhằm xử lý tốt nợ xấu của NHTM. Việc xoá bỏ nợ xấu không chỉ là nhiệm vụ của riêng hệ thống ngân hàng mà còn của cả nền kinh tế, nó không chỉ tuỳ thuộc vào các biện pháp của ngân hàng trung ương, NHTM, hay khách hàng vay mà còn tuỳ thuộc vào cả một hệ thống pháp lý đồng bộ, hoàn chỉnh, một môi trường kinh tế thuận lợi. Cần thành lập một tổ chức mua bán nợ- một tổ chức tài chính- tín dụng đặc thù có trách nhiệm xử lý nợ xấu. (Mô hình này đã được ngành ngân hàng xem xét áp dụng, nhưng đến nay đề án thành lập của NHNN trình Chính phủ không khả thi, thay vào đó, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Tài chính đang phối hợp với ngành ngân hàng xúc tiến hoàn chỉnh đề án thành lập một uỷ ban chuyên trách có chức năng xử lý nợ xấu). Cần tập trung tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế, thủ tục pháp lý: hoàn chỉnh, bổ sung thủ tục giấy tờ đối với những tài sản

38

bảo đảm tiền vay để có thể bán, cho thuê…Đồng thời cần thực hiện phân loại tài sản “Có” trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro trong hoạt động ngân hàng; nâng cao chất lượng tín dụng của các khoản cho vay ngay từ những khâu đầu tiên của quy trình tín dụng.

  • Để tăng hiệu quả của tín dụng chính sách của Nhà nước cần nhanh chóng tách bạch việc cho vay thực hiện chính sách với cho vay thương mại của các ngân hàng. Nếu cần, các NHTM có thể thực hiện theo sự uỷ thác của Chính phủ để hưởng phí hoặc hoa hồng trên số vốn đã thực hiện. Như vậy, các ngân hàng sẽ nâng cao tính chủ động và tự chịu trách nhiệm trong công việc của mình. Hơn nữa cần quan tâm đến khía cạnh kinh tế khi giải quyết các vấn đề xã hội, nếu không sẽ mang lại hậu quả ngược lại. Và một vấn đề quan trọng nữa là cần xem lại cơ chế tài chính trong việc thực hiện các chương trình kinh tế mang tính chính sách như trên, và nhất thiết phải có cơ chế hỗ trợ tài chính cho các ngân hàng. Nên chăng có thể khoán thu ở mức tối thiểu nào đó để các ngân hàng cố gắng và có trách nhiệm trong việc thu hồi nợ, số còn lại có thể cho phép trừ vào các khoản phải nộp ngân sách hoặc ngân sách cấp hỗ trợ trực tiếp.

Các giải pháp trên tuy chưa phải là đầy đủ, tối ưu song cũng có thể để tham khảo nhằm khắc phục những vấn đề còn hạn chế và cũng là để nâng cao hiệu quả của hoạt động tín dụng trong các NHTM.

39

PHẦN KẾT LUẬN.

Từ khi ra đời hệ thống NHTM Việt Nam cùng với hoạt động tín dụng của nó đã góp phần phát triển nền kinh tế Việt Nam một cách tích cực. Nó không những cung ứng vốn cho các doanh nghiệp tăng cường mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn có vai trò quan trọng trong việc tài trợ các dự án, chương trình xây dựng cơ bản, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật của đất nước. Tín dụng ngân hàng đã đạt được một số thành tựu nhất định, chứng tỏ rõ nó là một bộ phận chủ yếu trong hệ thống tín dụng ở nước ta, đóng vai trò tích cực trong việc thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển góp phần vào quá trình xây dựng đất nước đưa đất nước đi lên theo con đường chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, trong nền cơ chế thị trường thì hoạt động tín dụng trong các NHTM vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, còn tồn tại nhiều vấn đề cần giải quyết.

Trong khuôn khổ hạn hẹp của đề tài em đã trình bày một số lý luận cơ bản về NHTM và hoạt động tín dụng của nó, cùng với một số vấn đề nổi cộm trong thực tế hoạt động tín dụng trong các NHTM ở Việt Nam, và có đưa ra một số đề xuất về giải pháp nhằm khắc phục hạn chế, nâng cao hiệu quả của hoạt động tín dụng ngân hàng ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Trần Đăng Khâm đã tận tình hướng dẫn để em hoàn thành đề án này. Song do trình độ và thời gian có hạn nên bài viết chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý và chỉ bảo của các thầy cô và bạn bè để đề tài được hoàn thiện hơn.

Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 10/11/2001.

40

TÀI LIỆU THAM KHẢO.

  1. Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.- Nguyễn Đức Thảo. TpHCM.
  1. Ngân hàng thương mại. – Reed Edward, Gill Edwardk. TpHCM.
  1. Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại. – DCox. Nxb Chính trị quốc gia.
  1. Tiền và hoạt động ngân hàng. – Lê Vinh Danh. Nxb Chính trị quốc gia.
  1. Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính. – Frederic. S. Mishkin.
  1. Quản trị ngân hàng thương mại. – Peter S.Rose. Nxb Tài chính.
  1. Tạp chí Ngân hàng.
  1. Thời báo Ngân hàng.
  1. Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ.

41


Tải xuống tài liệu học tập PDF miễn phí

[sociallocker id=”19555″] Tải Xuống Tại Đây [/sociallocker]

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here