Văn mẫu Trình bày những nét chính trong sự nghiệp thơ văn của Xuân Diệu
Mọi ý kiến đóng góp xin gửi vào hòm thư: [email protected]
Tổng hợp các đề cương đại học hiện có của Đại Học Hàng Hải: Đề Cương VIMARU
Kéo xuống để Tải ngay đề cương bản PDF đầy đủ: Sau “mục lục” và “bản xem trước”
(Nếu là đề cương nhiều công thức nên mọi người nên tải về để xem tránh mất công thức)
Đề cương liên quan:Văn mẫu Hướng dẫn nghị luận về vấn đề tự học
Tải ngay đề cương bản PDF tại đây: Văn mẫu Trình bày những nét chính trong sự nghiệp thơ văn của Xuân Diệu
Văn mẫu lớp 9
Trình bày những nét chính trong sự nghiệp thơ văn của Xuân Diệu
BÀI LÀM
Xuân Diệu (1916-1985) – một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa lớn của dân tộc,
đã để lại cho đời một sự nghiệp sáng tác thật lớn lao và rất có giá trị. Hơn
năm mươi năm lao động miệt mài trong thế giới nghệ thuật ấy, con người và
thơ văn của Xuân Diệu đã có sự chuyển biến rõ nét từ một nhà thơ lãng mạn
thành nhà thơ cách mạng. Đó là bước chuyển tất yếu của một trí thức yêu
nước, một tài năng nghệ sĩ. Thơ văn Xuân Diệu có đóng góp lớn vào quá
trình phát triển của văn học Việt Nam.
Có thể tìm hiểu sự nghiệp văn học của nhà thơ qua thơ và văn xuôi:
Về lĩnh vực thơ ca, chúng ta có thể tìm hiểu qua hai giai đoạn chính, trước và
sau cách mạng tháng Tám. Trước cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu là một
nhà thơ lãng mạn.
Các tác phẩm chính: tập thơ “Thơ thơ” (1938) và “Gửi hương cho gió”
(1945).
Nội dung của thơ Xuân Diệu trong thời kỳ này là: Niềm say mê ngoại giới,
khát khao giao cảm trực tiếp, cháy bỏng, mãnh liệt với cuộc đời (“Vội vàng”,
“Giục giã”). Nỗi cô đơn rợn ngợp của cái tôi bé nhỏ giữa dòng thời gian vô
biên, giữa không gian vô tận (Lời kỹ nữ). Nỗi ám ảnh về thời gian khiến nhà
thơ nảy sinh một triết lý về nhân sinh: lẽ sống vội vàng (“Vội vàng”). Nỗi
khát khao đến chảy bỏng được đắm mình trọn vẹn giữa cuộc đời đầy hương
sắc và thể hiện nỗi đau đớn, xót xa trước khát vọng bị lãng quên thật phũ
phàng trước cuộc đời (“Dại khờ”, “Nước đổ lá khoai”).
Sau cách mạng, thơ Xuân Diệu đã vươn tới chân trời nghệ thuật mới, nhà thơ
đã đi từ “cái tôi bé nhỏ đến cái ta chung của mọi người” (P.Eluya). Xuân
Diệu giờ đây đã trở thành một nhà thơ cách mạng say mê, hăng say hoạt động
và ông đã có thơ hay ngay trong giai đoạn đầu. Xuân Diệu chào mừng cách
mạng với “Ngọn quốc kỳ” (1945) và “Hội nghị non sông” (1946) với tấm
lòng tràn đầy hân hoan trước lẽ sống lớn, niềm vui lớn của cách mạng.
Cùng với sự đổi mới của đất nước, Xuân Diệu có nhiều biến chuyển trong
tâm hồn và thơ
- Ý thức của cái Tôi công dân, của một nghệ sĩ, một trí thức yêu nước trước
thực tế cuộc sống. Đất nước đã đem đến cho ông những nguồn mạch mới
trong cảm hứng sáng tác. Nhà thơ hăng say viết về Đảng, về Bác Hồ, về Tổ
quốc Việt Nam, về quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội miền Bắc và công
cuộc thống nhất nước nhà. Các tác phẩm tiêu biểu: tập “Riêng chung” (1960),
“Hai đợt sóng” (1967), “tập “Hồn tôi đôi cánh” (1976)…
Từ những năm sáu mươi trở đi, Xuân Diệu tiếp tục viết thơ tình. Thơ tình
Xuân Diệu lúc này không vơi cạn mà lại có những nguồn mạch, cảm hứng
mới. Trước cách mạng, tình yêu trong thơ ông hầu hết là những cuộc tình xa
cách, cô đơn, chia li, tan vỡ…
Nhưng sau cách mạng, tình yêu của hai con người ấy không còn là hai vũ trụ
bé nhỏ nữa mà đã có sự hòa điệu cùng mọi người. Tình cảm lứa đôi đã hòa
quyện cùng tình yêu tổ quốc. Xuân Diệu nhắc nhiều đến tình cảm thủy chung
gắn bó, hạnh phúc, sum vầy chứ không lẻ loi, đơn côi nữa (Dấu nằm”,
“Biển”, “Giọng nói”, “Đứng chờ em”).
Về lĩnh vực văn xuôi có thể nói Xuân Diệu quả thật tài tình. Bên cạnh tố chất
thơ ca bẩm sinh như thế, Xuân Diệu còn rất thành công trong lĩnh vực văn
xuôi.
Các tác phẩm chính: “Trường ca” (1939) và “Phấn thông vàng” (1945). Các
tác phẩm này được Xuân Diệu viết theo bút pháp lãng mạn nhưng đôi khi
ngòi bút lại hướng sang chủ nghĩa hiện thực (“Cái hỏa lò”, “Tỏa nhị Kiều”).
Ngoài ra, Xuân Diệu còn rất tài tình trong việc phê bình văn học, dịch thuật
thơ nước ngoài. Các tác phẩm tiêu biểu: “Kí sự thăm nước Hung”, “Triều
lên”, “Các nhà thơ cổ điển Việt Nam”, “Dao có mài mới sắc”.
Dù ở phương diện nào, Xuân Diệu cũng có đóng góp rất to lớn với sự nghiệp
văn học Việt Nam.
Vũ Ngọc Phan từng nhận xét “Xuân Diệu là người đem nhiều cái mới nhất
cho thơ ca hiện đại Việt Nam”. Sự đóng góp của Xuân Diệu diễn ra đều đặn
và trọn vẹn trong các thể loại và các giai đoạn lịch sử của dân tộc.
Chính vì thế có thể nói rằng Xuân Diệu xứng đáng là một nhà thơ lớn, nhà
văn hóa lớn.