Luận văn Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam

0
1261
Luận văn Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam
QUẢNG CÁO
Vài Phút Quảng Cáo Sản Phẩm


Luận văn Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam

Mọi ý kiến đóng góp xin gửi vào hòm thư: [email protected]

Kéo xuống để Tải ngay đề cương bản PDF đầy đủ: Sau “mục lục” và “bản xem trước”

(Nếu là đề cương nhiều công thức nên mọi người nên tải về để xem tránh mất công thức)

Đề cương liên quan:Giải pháp phát triển thị trường quyền chọn ngoại tệ và quyền chọn chứng khoán (Bài 7)


Mục Lục

Tải ngay đề cương bản PDF tại đây: Luận văn Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam

Quảng Cáo

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến GS.TS Nguyễn Thị Mơ trường ĐH Ngoại thương – người đã hướng dẫn tôi hết sức tận tâm, nhiệt tình, khoa học để tôi hoàn thành luận văn thạc sĩ này

Đồng thời, tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các thầy cô giáo của trường Đại học Ngoại thương, đặc biệt là các thầy cô trong Khoa Sau đại học đã giúp tôi trong quá trình thực hiện luận văn.

Tôi cũng xin gủi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, những người đã sát cánh bên cạnh và ủng hộ tôi, là động lực cho tôi hoàn thành luận văn này một cách thuận lợi.

Hà Nội, tháng 9 năm 2011

Trần  Huyền Trâm

LỜI NÓI ĐẦU

  1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Thị trường tài chính và tiền tệ ngày càng phát triển tại Việt Nam. Sau khi gia nhập WTO, những quy định hạn chế đối với các doanh nghiệp nước ngoài nói chung và các ngân hàng thương mại (NHTM) nói riêng đã dần bị loại bỏ, một sân chơi bình đẳng chung đã và đang hình thành ngày càng rõ nét. Để đáp ứng, bắt nhịp được xu thế chung này, đồng thời tận dụng những thuận lợi mà việc hội nhập mang lại, hệ thống ngân hàng Việt Nam trong thời gian qua đã có những thay đổi trong cơ cấu để kịp thời thích nghi. Đa dạng hóa, hiện đại hóa loại hình hoạt động kinh doanh đang là xu thế chung của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Điều này hết sức cần thiết bởi để cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài với các gói dịch vụ đa dạng, chuyên nghiệp, có nhiều kinh nghiệm, các NHTM Việt Nam cũng cần tập trung nghiên cứu để đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ, đáp ứng nhu cầu của khách hàng nhằm từng bước hội nhập vào cộng đồng tài chính khu vực và thế giới.

Hiện nay, những hoạt động chính của một ngân hàng thương mại thường bao gồm các hoạt động huy động vốn, cho vay và đầu tư, làm trung gian thanh toán. Bên cạnh đó, một trong những loại hình hoạt động có vai trò quan trọng và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu hoạt động cũng như cơ cấu lợi nhuận của các NHTM Việt Nam là hoạt động kinh doanh ngoại tệ.

Hoạt động kinh doanh ngoại tệ (KDNT) tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (NHNo&PTNT VN) cũng như tại các NHTM khác hiện đang chiếm một vị trí quan trọng, hỗ trợ khá nhiều cho các hoạt động khác như thanh toán quốc tế, tín dụng…. Vai trò của hoạt động kinh doanh ngoại tệ ngày một

tăng do xu thế hội nhập, giao lưu và buôn bán với các quốc gia khác ngày càng có xu thế tăng. Tuy nhiên hoạt động KDNT cũng gặp nhiều khó khăn do sự biến động của hệ thống tài chính toàn cầu và sự thay đổi thường xuyên trong việc ban hành chính sách quản lý hoạt động này ở Việt Nam. Vì vậy NHNo&PTNT VN cũng gặp nhiều khó khăn trong hoạt động KDNT trong thời gian vừa qua. Giải pháp nào cho việc nâng cao hiệu quả của hoạt động KDNT tại NHNo&PTNT VN? Với những kinh nghiệm thực tiễn làm việc tại Sở giao dịch NHNo&PTNT VN kết hợp với

những kiến thức đã tích lũy được sau hai năm theo học chương trình cao học, tôi đã chọn vấn đề “Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại NHNo&PTNT VN” làm đề tài luận văn cao học của mình.

  1. Tình hình nghiên cứu

2.1. Tình hình nghiên cứu tại nước ngoài

  • nước ngoài hoạt động KDNT là một hoạt động mang lại khá nhiều lợi nhuận và đã được thực hiện từ rất lâu. Do vậy, cũng đã có khá nhiều đề tài nghiên cứu về vấn đề này. Ngoài những giáo trình và đề tài nghiên cứu chung về hoạt động này (bao gồm những khái niệm, các nghiệp vụ của hoạt động KDNT) thì ta có thể nhận thấy, đối với các ngân hàng tại nước ngoài, do tính phức tạp trong các nghiệp vụ thực hiện hoạt động KDNT, việc kiểm soát rủi ro được các nhà quản trị quan tâm

nhiều hơn. Do vậy cũng đã có khá nhiều đề tài nghiên cứu đi khá sâu về việc quản trị rủi ro trong hoạt động KDNT, có thể kể đến một số đề tài như: “Foreign exchange risk management in commercial bank in Pakistan” của tác giả Maroof Hussain, đề tài “ Management of Foreign exchange risk in selected commercial bank, in Nigeria” của nhóm tác giả J.O. Adetayo, E.A. Dionco Adetayo và B. Oladejo. Hiện nay, theo tìm hiểu của bản thân tác giả, tác giả nhận thấy chưa có đề tại nào tại nước ngoài nghiên cứu riêng và cụ thể về việc nâng cao hiệu quả hoạt động KDNT tại một NHTM ở Việt Nam, cụ thể là tại NHNo&PTNT VN.

2.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước

Từ trước đến nay cũng đã có khá nhiều đề tài trong nước nghiên cứu về hoạt động kinh doanh ngoại tệ hoặc kinh doanh ngoại hối của các ngân hàng thương mại tuy nhiên các đề tài này tập trung chủ yếu vào việc phát triển hoặc mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại tệ chứ chưa đề cập hoặc phân tích sâu đến việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại một ngân hàng. Có thể kể đến công trình của một số tác giả như: “Phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam”, luận văn thạc sỹ của tác giả Trang Quốc Hưng năm 2008; đề tài “ Giải pháp mở rộng kinh doanh ngoại tệ tại ngân hàng Công thương chi nhánh Đà Nẵng” đăng trong “Tuyển tập Báo cáo Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học lần thứ 7 Đại học Đà Nẵng năm 2010” của tác giả Trần Thị Thảo Nhi; đề

tài “Giải pháp mở rộng kinh doanh ngoại tệ tại Sở giao dịch NHNo&PTNT VN” luận văn thạc sỹ của tác giả Quản Trần Tùng, năm 2010…

Như vậy có thể thấy các tác giả nói trên mới chỉ tập trung vào nghiên cứu việc phát triển và mở rộng hoạt động KDNT tại các NHTM mà chưa đi sâu vào phân tích các tiêu chí về hiệu quả hoạt động KDNT, đặc biệt chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu hiệu quả hoạt động KDNT tại NHNo&PTNT VN.

  1. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHTM nói chung và đánh giá hiệu quả hoạt động KDNT của NHNo&PTNT VN, đề tài đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động KDNT của NHNo&PTNT VN trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:

  • Làm rõ khái niệm đặc điểm và nội dung của hoạt động KDNT và các tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động KDNT của NHTM
  • Đánh giá hiệu quả KDNT của NHNo&PTNT VN trong thời gian qua, trong đó đặc biệt nhấn mạnh những bất cập và nguyên nhân của những bất cập.
  • Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động KDNT của NHNo&PTNT VN nhằm đáp ứng yêu cầu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
  1. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ và hiệu quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại NHNo&PTNT VN.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Về thời gian, phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHNo&PTNT VN giai đoạn từ năm 2007 đến nay. Khi đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động KDNT của NHNo&PTNT VN đề tài đề xuất giải pháp từ nay đến năm 2015 và xa hơn, đến năm 2020.

Về không gian, đề tài phân tích hoạt động KDNT trong phạm vi theo nghĩa hẹp, tức là sẽ đi sâu nghiên cứu về hoạt động mua bán ngoại tệ của NHTM nói chung và của NHNo&PTNT VN nói riêng, các nghiệp vụ của nó và ảnh hưởng của hoạt động này tới các hoạt động cho vay ngoại tệ, thanh toán quốc tế…để từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động KDNT.

  1. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống như phương pháp phân tích, phương pháp hệ thống hóa, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh và phương pháp luận giải.

  1. Kết cấu của đề tài

Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, danh mục các ký hiệu viết tắt, nội dung của luận văn được kết cấu làm ba chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về hoạt động kinh doanh ngoại tệ và hiệu quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng thương mại

Chương 2: Đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHNo&PTNT VN

Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHNo&PTNT VN trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.

 

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGOẠI TỆ VÀ HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGOẠI TỆ CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI

1.1.     Hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng thƣơng mại

1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHTM

1.1.1.1.    Khái niệm về NHTM

Ngân hàng thương mại trước hết là một ngân hàng. Khái niệm về ngân hàng đã được luật hóa trong các văn bản pháp luật hiện hành của Việt Nam. Theo Luật các tổ chức tín dụng năm 20101: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm: ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã” (điều 4.2 Luật các TCTD 2010).

Điều 4.3 của Luật các TCTD năm 2010 nêu định nghĩa về NHTM, theo đó, “Ngân hàng thương mại” là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận.

Ngân hàng Nhà nước quy định cụ thể phạm vi, loại hình, nội dung hoạt động ngân hàng, hoạt động kinh doanh khác của tổ chức tín dụng trong Giấy phép cấp cho từng tổ chức tín dụng.

Theo luật các TCTD năm 2010: “Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây:

  • Nhận tiền gửi: Là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận.
  • Luật các tổ chức tín dụng được quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 16/06/2010, có hiệu lực từ ngày 01/01/2011. Luật này thay thế cho Luật các tổ chức tín dụng năm 2004.

 

  • Cấp tín dụng: Là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.
  • Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản: Là việc cung ứng phương tiện thanh toán, thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ thanh toán cho khách hàng

thông qua tài khoản của khách hàng.

Ngoài ra, theo quy định tại điều 104 và 105 Luật các TCTD năm 2010, các NHTM còn được phép kinh doanh ngoại tệ.2

1.1.1.2. Hoạt động KDNT của NHTM

Lịch sử hình thành của hoạt động KDNT: Khi mới hình thành, các ngân hàng còn ở dưới dạng sơ khai, chủ yếu làm nhiệm vụ cầm giữ tài sản của các thương nhân và thực hiện động kinh doanh của nó đã được hình thành rất lâu đời và phát triển từ những bước thô sơ nhất. Chính hoạt động thương mại và nhu cầu của xã hội đã thúc đẩy việc hình thành và thanh toán hộ với tiền lãi chính là mức phí cầm giữ và thanh toán hộ. Sau đó, khi giao thương ngày càng phát triển, nhu cầu sử dụng vốn ngày càng phát sinh nhiều, các ngân hàng nhận thấy rằng hình thức cho vay vốn đem lại cho họ rất nhiều lợi nhuận. Lúc này thay vì thu phí khoản tiền gửi, họ quay sang trả phí cho những người gửi tiền đồng thời đem nguồn vốn đó đi cho vay. Tiếp đến, khi thương mại giữa các vùng lãnh địa và giữa các quốc gia ngày một phát triển lại này sinh thêm một nhu cầu khác của xã hội. Như chúng ta cũng đã biết, mỗi lãnh thổ và quốc gia lưu hành và sử dụng một loại đồng tiền tệ riêng. Do đó, khi phát sinh nhu cầu mua bán, thanh toán giữa các quốc gia với nhau này sinh nhiều khó khăn từ vấn đề chuyển đổi và bảo quan các loại ngoại tệ. Chính điều này đã thúc đẩy sự ra đời của những tổ chức chuyên nghiệp thực hiện chức năng riêng

  • Điều 104 quy định: “Ngân hàng thương mại được tham gia đấu thầu tín phiếu Kho bạc, mua, bán công cụ chuyển nhượng, trái phiếu Chính phủ, tín phiếu Kho bạc, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước và các giấy tờ có giá khác trên thị trường tiền tệ.

 

biệt do việc lưu thông tiền tệ đòi hỏi như nhận đổi tiền và giữ tiền.. Lúc đầu, các nghiệp vụ này không nhằm mục đích tạo lợi nhuận mà chỉ có mục đích đơn thuần là vì nhu cầu có một loại tiền này hay một loại tiền khác để giao dịch cho tiện lợi. Nhưng dần dần về sau, người ta ý thức được nhiều vấn đề phức tạp hơn có liên quan đến mục tiêu bảo vệ giá trị tài sản hoặc mục tiêu kiếm lời. Chính từ đó mới phát sinh những nghiệp vụ mua bán ngoại tệ để kiếm lời, còn gọi là kinh doanh ngoại tệ (KDNT).

Hiện nay, với sự phát triển của hoạt động ngoại thương cùng với hệ thống ngân hàng, hoạt động KDNT ngày một phát triển đa dạng và phong phú hơn. Hoạt động ngoại thương phát triển đã thúc đẩy hình thành các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế cũng như thúc đẩy sự phát triển của hoạt động KDNT. Hoạt động ngoại thương bao gồm rất nhiều những hoạt động như hoạt động xuất nhập khẩu, hoạt động đầu tư quốc tế, hoạt động thanh toán quốc tế, tài trợ thương mại… Việc thanh toán giao dịch giữa hai đối tác của hai nước khác nhau gần như bắt buộc dẫn đến một nghiệp vụ hối đoái thông qua hệ thống ngân hàng, một trong hai bên phải đổi đồng tiền nước mình thành ngoại tệ hoặc ngược lại. Hoặc việc chuyển tiền từ nước này sang nước kia gần như hoàn toàn phải thông qua hệ thống ngân hàng… Các hoạt động này sẽ góp phần làm tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước, thúc đẩy hoạt động của thị trường ngoại hối nói chung và hoạt động KDNT của các ngân hàng thương mại (NHTM) nói riêng.

Nói tóm lại, hầu hết buôn bán quốc tế đều kéo theo các giao dịch tiền tệ và ngược lại, rất nhiều sự kiện liên quan đến tiền tệ đều có tác động đến thương mại. Các giao dịch tiền tệ quốc tế được thực hiện thông qua ngân hàng và vì thế, hoạt động KDNT của ngân hàng chính là chất xúc tác, là điều kiện đảm bảo an toàn cho các bên tham gia hoạt động xuất nhập khẩu cũng như tài trợ cho họ trong hoạt động sản xuất kinh doanh.

Khái niệm về Kinh doanh ngoại tệ:

Theo điều 105 Luật các TCTD năm 2010: “1. Sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản, ngân hàng thương mại được kinh doanh, cung ứng dịch vụ cho khách hàng ở trong nước và nước ngoài các sản phẩm sau đây:

  1. Ngoại hối;
  1. Phái sinh về tỷ giá, lãi suất, ngoại hối, tiền tệ và tài sản tài chính khác.
  1. Ngân hàng Nhà nước quy định về phạm vi kinh doanh ngoại hối; điều kiện, trình tự, thủ tục chấp thuận việc kinh doanh ngoại hối; kinh doanh, cung ứng sản phẩm phái sinh của ngân hàng thương mại.
  1. Việc cung ứng dịch vụ ngoại hối của ngân hàng thương mại cho khách hàng thực hiện theo quy định của pháp luật về ngoại hối.”

Theo điều 4 Pháp lệnh Ngoại hối3, ngoại hối bao gồm:

  1. Đồng tiền của quốc gia khác hoặc đồng tiền chung châu Âu và đồng tiền chung khác được sử dụng trong thanh toán quốc tế và khu vực (sau đây gọi là ngoại tệ);
  1. Phương tiện thanh toán bằng ngoại tệ, gồm séc, thẻ thanh toán, hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ và các phương tiện thanh toán khác;
  1. Các loại giấy tờ có giá bằng ngoại tệ, gồm trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá khác;
  1. Vàng thuộc dự trữ ngoại hối nhà nước, trên tài khoản ở nước ngoài của người cư trú; vàng dưới dạng khối, thỏi, hạt, miếng trong trường hợp mang vào và mang ra khỏi lãnh thổ Việt Nam;

đ) Đồng tiền của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp chuyển vào và chuyển ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc được sử dụng trong thanh toán quốc tế.

Như vậy có thể thấy ngoại tệ là một phần của ngoại hối và hoạt động kinh doanh ngoại tệ là một phần của hoạt động kinh doanh ngoại hối. Các ngân hàng thương mại muốn thực hiện hoạt động kinh doanh ngoại tệ cần được sự cho phép của NHNN và phạm vi kinh doanh ngoại tệ của mỗi ngân hàng sẽ tùy thuộc vào giấy phép mà NHNN cấp cho. Kinh doanh ngoại tệ, theo nghĩa rộng, bao gồm việc mua bán ngoại tệ, đảm bảo ổn định số dư tài khoản KDNT tại nước ngoài và tìm cách thu lời thông qua chênh lệch tỷ giá và lãi suất giữa các đồng tiền khác nhau.

  • Pháp lệnh ngoại hối số 28/2005/PL-UBTVQH11 do Ủy ban thường vụ ban hành ngày 13/12/2005.

 

Theo nghĩa hẹp, người ta hiểu khái niệm KDNT chỉ đơn thuần là việc mua và bán số dư có trên tài khoản bằng ngoại tệ.

KDNT bao gồm KDNT tiền mặt và KDNT chuyển khoản. KDNT tiền mặt (đồng tiền của một quốc gia khác hoặc đồng tiền chung của nhiều quốc gia dưới dạng ngoại tệ tiền kim loại, tiền giấy, séc du lịch và các công cụ thanh toán tương tự khác) chủ yếu liên quan đến các hoạt động du lịch và có doanh số giao dịch rất nhỏ so với KDNT chuyển khoản. KDNT chuyển khoản được thực hiện nhờ vào các lệnh được chuyển qua mạng thông tin thanh toán bằng đồng ghi sổ qua các tài khoản có tại ngân hàng. Tiền gửi được chuyển từ tài khoản người bán sang tài khoản người mua thông qua các lệnh chuyển tiền bằng điện tín, hối phiếu…

1.1.1.3. Vai trò của hoạt động kinh doanh ngoại tệ đối với các NHTM trong nền kinh tế thị trường

Ngày nay, hoạt động KDNT đóng vai trò khá quan trọng đối với các NHTM bởi trước hết các NHTM thực hiện hoạt động này nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu cho khách hàng ( mục tiêu cốt lõi của tất cả các hoạt động ngân hàng là cung cấp dịch vụ cho khách hàng, đồng thời vì mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận và phòng ngừa rủi ro cho chính các ngân hàng).

Bên cạnh đó, khi thực hiện hoạt động này, các NHTM có thể tăng doanh thu từ các khoản chi phí dịch vụ và mở rộng hệ thống Ngân hàng đại lý và mạng lưới thanh toán quốc tế, nâng cao vị thế và uy tín trong giới tài chính quốc tế. Việc mở rộng quan hệ đại lý sẽ tạo điều kiện cho các NHTM có thể chia sẻ thông tin, trao đổi nghiệp vụ, tiếp cận thị trường mới cũng như tranh thủ được công nghệ ngân hàng, trình độ quản lý tiên tiến từ các quốc gia có nền kinh tế phát triển, dành cho nhau những ưu đãi trong tín dụng, trong mức phí dịch vụ ngân hàng, trong đào tạo nguồn nhân lực…

Tiếp đến, việc thực hiện hoạt động kinh doanh ngoại tệ sẽ giúp các NHTM tránh được rủi ro về tỷ giá.. Để phòng chống rủi ro, ngân hàng có thể sử dụng các phương pháp sau:

  • Sử dụng hợp đồng kỳ hạn: Nguyên tắc chung khi sử dụng hợp đồng kỳ hạn để phòng ngừa rủi ro tỷ giá là thông qua các hợp đồng này, các đơn vị cố định tỷ giá

mua hay tỷ giá bán ngoại tệ với ngân hàng, từ đó cố định trước các khoản thu nhập hay chi trả bằng nội tệ bất luận sự biến động của tỷ giá trên thị trường. Tuy nhiên, hợp đồng có kỳ hạn chưa phải là cách phòng chống rủi ro hối đoái tốt nhất, đồng thời đánh mất cơ hội kinh doanh kiếm lời nếu tỷ giá biến động ngược lại với dự kiến.

  • Sử dụng hợp đồng quyền chọn: Thông qua hợp đồng này, một mặt khách hàng thỏa mãn nhu cầu về ngoại tệ của mình, mặt khác khách hàng sẽ có quyền không thực hiện hợp đồng nếu thấy hợp đồng hoặc thị trường có những biến động bất lợi cho hoạt động kinh doanh của mình.
  • Sử dụng hợp đồng hoán đổi ngoại tệ: Khi sử dụng hợp đồng này, khách hàng được thỏa mãn nhu cầu về ngoại tệ của mình, đồng thời có được sự cam kết của ngân hàng về số ngoại tệ sẽ nhận lại trong tương lai theo một tỷ giá biết trước.

Như vậy, ngân hàng luôn tìm mọi cách để hạn chế các rủi ro về tỷ giá hối đoái đến mức thấp nhất thông qua nghiệp vụ KDNT. Các phương pháp phòng ngừa rủi ro hối đoái chỉ thực hiện được khi nào có một thị trường tiền tệ phát triển và NHTM sẵn sàng cung cấp các hợp đồng này, hay các hợp đồng vay và cho vay trên thị trường tiền tệ.

Cuối cùng, hoạt động KDNT giúp các NHTM dự trữ nhiều loại ngoại tệ. Từ đó, phân tán đều rủi ro, tránh gây tổn thất nặng nề cho ngân hàng khi tỷ giá một loại ngoại tệ nào đó đột nhiên biến động mạnh. Với việc đa dạng hóa các loại ngoại tệ mạnh một cách chủ động trong kinh doanh sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng thực hiện đa dạng và phát triển thêm các nghiệp vụ KDNT khác nhau như quy đổi, điều chuyển vốn giữa các ngoại tệ với nhau trên các tài khoản tiền gửi ngân hàng tại các ngân hàng nước ngoài nhằm đảm bảo thanh toán xuất nhập khẩu, hưởng chênh lệch tỷ giá và lãi suất.

1.1.2. Các nghiệp vụ cụ thể trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHTM

Thực tế cho thấy, bất kỳ loại hình kinh doanh nào mang lại lợi nhuận lớn thì rủi ro mà nó đem lại cũng không phải là nhỏ và KDNT cũng không nằm ngoài quy

luật đó. Để hạn chế các rủi ro người ta áp dụng các nghiệp vụ trên thị trường hối đoái.

Tuy nhiên, các nghiệp vụ này không chỉ đơn thuần là hạn chế phòng ngừa rủi ro mà trong quá trình thực hiện, nó còn mang lại một phần lợi nhuận đáng kể trong tổng lợi nhuận. Do đó, nó cũng là các nghiệp vụ KDNT trong chính sách đa dạng hóa sản phẩm kinh doanh của ngân hàng. Mục đích kinh doanh của ngân hàng là: tìm kiếm lợi nhuận, phục vụ khách hàng và phát triển các nghiệp vụ ngân hàng, trong đó có nghiệp vụ KDNT. Trong thực tế, thường có 5 hoạt động KDNT chủ yếu dưới đây:

1.1.2.1. Nghiệp vụ KDNT giao ngay

Nghiệp vụ KDNT giao ngay là một nghiệp vụ kinh doanh doanh sơ cấp trong đó việc giao dịch mua bán một số lượng ngoại tệ giữa hai bên được theo tỷ giá thời điểm giao dịch và kết thúc việc thanh toán trong vòng hai ngày làm việc kế tiếp, kể từ thời điểm giao dịch đã được thỏa thuận giữa hai bên.

Giao dịch giao ngay là nghiệp vụ KDNT đơn giản, dễ thực hiện nhất và khá phổ biến trên thị trường hối đoái, chiếm khoảng 58% trong tổng số các giao dịch mua bán ngoại tệ trên thế giới và làm cơ sở cho các giao dịch khác. Còn ở Việt Nam hiện nay, giao dịch này chiếm trên 90% khối lượng giao dịch hối đoái.

Tỷ giá mua bán trong giao dịch này được lấy trực tiếp từ tỷ giá giao ngay đã được niêm yết trên thị trường tại thời điểm giao dịch. Tuy nhiên, trong những trường hợp muốn giao dịch giữa hai loại ngoại tệ mà tỷ giá giữa chúng chưa được niêm yết sẵn thì các nhà kinh doanh sẽ phải tự xác định bằng kỹ thuật tính chéo tỷ giá.

Trong giao dịch giao ngay, ngân hàng không thu phí giao dịch hay hoa hồng mà sử dụng chênh lệch giữa tỷ giá bán và tỷ giá mua để trang trải các chi phí giao dịch, kể cả bù đắp rủi ro và thu lợi nhuận thỏa đáng. Chênh lệch giữa giá mua và giá bán của một ngoại tệ cao hay thấp tùy thuộc vào phạm vi các giao dịch hẹp hay rộng và mức độ biến động giá trị của ngoại tệ đó trên thị trường.

Nghiệp vụ hối đoái giao ngay được thực hiện khi:

  • Trước hết là, phải có nhu cầu của khách hàng. Thông thường nghiệp vụ giao ngay phát sinh khi có nhu cầu của khách hàng và ngân hàng sẽ thực hiện nghiệp vụ này để đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
  • Ngân hàng thực hiện hoạt động đầu cơ. Giả sử ngân hàng dự đoán tỷ giá của một đồng tiền sẽ tăng trong thời gian tới, ngân hàng sẽ mua đồng tiền đó theo hợp đồng giao ngay với ngân hàng khác. Khi tỷ giá thay đổi theo đúng dự đoán, ngân hàng có thể bán trao ngay số tiền đầu cơ đó và thu chênh lệch. Ngoài ra, nghiệp vụ giao ngay được sử dụng kết hợp với các nghiệp vụ khác trong các hoạt động đầu cơ chênh lệch lãi suất.

1.1.2.2. Nghiệp vụ KDNT theo hợp đồng kỳ hạn

KDNT theo hợp đồng kỳ hạn là nghiệp vụ kinh doanh, trong đó các yếu tố của giao dịch (tỷ giá, số tiền, ngày giao…) được xác định ở thời điểm hiện tại, còn việc thực hiện chúng thì ở một thời điểm trong tương lai. Hai bên mua bán sẽ thỏa thuận về việc chuyển giao một số ngoại tệ nhất định, sau một thời gian nhất định kể từ ngày ký kết hợp đồng, theo tỷ giá được xác định ở thời điểm ký kết.

Khi thực hiện nghiệp vụ này, người ta áp dụng tỷ giá kỳ hạn được xác định căn cứ trên cung và cầu ngoại tệ, tình hình lãi suất của các đồng tiền đó, tình trạng tăng giảm cán cân thương mại… Tỷ giá này được ấn định vào ngày ký hợp đồng (J), còn ngày giá trị là một ngày xác định trong tương lai (J+N).

Khác với nghiệp vụ mua bán giao ngay là kinh doanh chênh lệch giá kiếm lời, nghiệp vụ mua bán kỳ hạn chủ yếu là phòng ngừa rủi ro do biến động của tỷ giá.

Đối với các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu, họ luôn có nguồn thu chi bằng ngoại tệ và họ không thể tránh khỏi rủi ro do sự biến động bất thường về tỷ giá của các đồng ngoại tệ đem lại. Chính vì vậy, để bù đắp rủi ro tỷ giá có thể xảy ra trong thời hạn thực hiện giao dịch, các nhà xuất nhập khẩu thực hiện hợp đồng mua bán ngoại tệ có kỳ hạn với ngân hàng. Với tư cách là một công cụ phòng chống rủi ro, hợp đồng có kỳ hạn được sử dụng để cố định khoản thu nhập hay chi trả theo một tỷ giá cố định đã biết trước, bất kể sự biến động của tỷ giá trên thị trường. Có nghĩa là, khi mua ngoại tệ có kỳ hạn, nhà nhập khẩu có một công cụ chống lại sự tăng tỷ giá bằng việc dùng đồng bản tệ mua trước một khoản ngoại tệ mà chưa cần giao ngay.

Ngược lại, bán ngoại tệ có kỳ hạn cho phép các nhà xuất khẩu bán trước một khoản ngoại tệ mà họ sẽ nhận được nhằm loại trừ rủi ro xảy ra khi tỷ giá ngoại tệ có thể giảm giữa thời điểm ký hợp đồng và thời điểm nhận tiền thực sự.

Bên cạnh việc sử dụng công cụ giao dịch hối đoái có kỳ hạn để bù đắp rủi ro, việc mua và bán ngoại tệ có kỳ hạn có thể nhằm mục đích sinh lời dựa vào sự biến động của tỷ giá. Trong trường hợp đó, người mua và người bán cùng sẵn sàng chấp nhận rủi ro hối đoái: người mua ngoại tệ hy vọng rằng họ có thể bán lại bằng nghiệp vụ trao ngay để kiếm lời tại thời điểm họ nhận được ngoại tệ; người bán cũng hy vọng mua lại số ngoại tệ đó bằng nghiệp vụ trao ngay với giá rẻ hơn tại thời điểm kết thúc giao dịch có kỳ hạn mà họ vừa bán ngoại tệ.

Điều kiện để thực hiện nghiệp vụ kỳ hạn là:

  • Có các quy định của pháp luật về xác định tỷ giá kỳ hạn, phí hợp đồng…
  • Khách hàng biết đến nghiệp vụ này của ngân hàng và có yêu cầu thực hiện nó nhằm tránh rủi ro do những biến động bất thường của tỷ giá ảnh hưởng bất lợi tới hoạt động kinh doanh của khách hàng.
  • Khả năng của ngân hàng để đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Nếu ngân hàng chỉ thực hiện một nghiệp vụ kỳ hạn đơn lẻ, ngân hàng có thể phải gánh chịu một rủi ro hối đoái thay cho khách hàng của mình. Vậy mối quan hệ của ngân hàng với các khách hàng khác, với các ngân hàng bạn trong nước và thế giới là yếu tố quan trọng để ngân hàng thực hiện được các nghiệp vụ đối ứng, loại trừ rủi ro trên.

1.1.2.3.    Nghiệp vụ kinh doanh hoán đổi ngoại tệ

Nghiệp vụ hoán đổi (Swap) là một nghiệp vụ trong đó cùng một lúc, ngân hàng đồng thời thực hiện hai nghiệp vụ: một giao dịch giao ngay theo tỷ giá giao ngay và một giao dịch kỳ hạn theo hướng ngược lại theo tỷ giá kỳ hạn, được thực hiện cùng với một khoản đối ứng với cùng một bạn hàng.

Khác với trong nghiệp vụ giao ngay hay nghiệp vụ kinh doanh có kỳ hạn, ngân hàng mới chỉ hoạt động một chiều để phục vụ khách hàng của mình, nghĩa là ngân hàng mua hoặc bán một số lượng ngoại tệ theo tỷ giá giao ngay hay tỷ giá kỳ hạn mà không đồng thời thỏa thuận với khách hàng một nghiệp vụ đối ứng bán hoặc mua lại. Do đó, ngân hàng không chắc chắn rằng có thể cân bằng được trạng thái

ngoại hối của mình ngay sau thời điểm giao dịch đó; nghiệp vụ hoán đổi có thể khắc phục được rủi ro trên.

Trong trạng thái ngoại hối Swap, số lượng tiền mua và bán luôn bằng nhau; vì vậy mà giao dịch này không bao giờ làm thay đổi trạng thái ngoại tệ thực của ngân hàng. Đồng thời, nghiệp vụ này cũng là một công cụ phòng ngừa rủi ro khi tỷ giá ngược với dự đoán, tránh rủi ro tỷ giá khi thực hiện khoản vay hoặc cho vay nếu không thực hiện nghiệp vụ giao dịch hoán đổi. Nếu có thay đổi trong tỷ giá giao ngay của các đồng tiền thì cũng không làm phát sinh khoản lỗ hay lãi hối đoái nào do có giao dịch Swap. Trong trường hợp hợp đồng ngoại tệ bị lên giá, số bản tệ bị mất trong khi bán sẽ được bù đắp trong khi mua ở lần giao dịch tiếp theo.

Điều kiện để thực hiện nghiệp vụ Swap cũng tương tự như với nghiệp vụ kỳ hạn, tuy nhiên nghiệp vụ Swap có những ưu điểm hơn so với nghiệp vụ có kỳ hạn đối với một số đối tượng sau:

  • Một doanh nghiệp lớn vừa hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu. Doanh nghiệp này vừa nhận được khoản thu ngoại tệ từ xuất khẩu, anh ta muốn đổi nội tệ để sử dụng chi trả trong nước. Tuy nhiên, anh ta lại có nhu cầu ngoại tệ trong tháng tới để trả tiền hàng nhập khẩu. Thay vì ký kết hợp đồng bán ngoại tệ giao ngay và hợp đồng mua ngoại tệ kỳ hạn, doanh nhiệp này sẽ sử dụng Swap. Như vậy, doanh nghiệp vừa đảm bảo tránh được rủi ro hối đoái vừa giảm được chi phí giao dịch phải trả cho ngân hàng khi chỉ ký kết Swap, chứ không phải hai hợp đồng riêng biệt.
  • Đối với NHTM, Swap là công cụ hữu hiệu tạo ra trạng thái vốn của hai đồng

tiền mà không làm ảnh hưởng tới trạng thái ngoại hối. Vì vậy, giao dịch này trong thực tế thường được các ngân hàng thực hiện với nhau nhằm thỏa mãn nhu cầu sử dụng một đồng tiền nhất định mà không phải đi vay trên thị trường. Nghiệp vụ Swap còn giúp các ngân hàng cân bằng được sự mất cân đối về hối đoái trong các nghiệp vụ tiền gửi và tiền vay.

1.1.2.4.    Nghiệp vụ KDNT theo hợp đồng tương lai

Về nội dung cơ bản thì nghiệp vụ KDNT theo hợp đồng tương lai cũng tương tự như giao dịch kỳ hạn, nghĩa là hoạt động mua bán một số lượng ngoại tệ

nhất định theo tỷ giá xác định tại ngày giao dịch và việc thực hiện chuyển giao ngoại tệ được thực hiện vào một ngày trong tương lai. Tuy vậy, giữa hai hình thức KDNT này có những điểm khác nhau đó là: hợp đồng kỳ hạn mang tính chất bắt buộc giữa các cá nhân, còn hợp đồng tương lai không phải là một thỏa thuận mang tính cá nhân, người mua hay bán ở đây không có ý định thật sự giao trả tiền đã ghi trong hợp đồng. Các giao dịch hối đoái tương lai rất ít được duy trì cho tới thời điểm tất toán, các bên tham gia có thể sang nhượng lại hợp đồng ở bất kỳ thời điểm nào trước khi hợp đồng hết hạn. Người mua hợp đồng hối đoái tương lai thường bán lại hợp đồng khi gần đáo hạn hợp đồng để kiếm lợi bù trừ cho phần lỗ mà họ có thể gánh chịu vì sự biến đổi của tỷ giá. Người bán hợp đồng hối đoái tương lai thường mua lại hợp đồng đó khi gần đáo hạn cũng trong mục đích nói trên. Bên cạnh đó, việc thanh toán tiền diễn ra hàng ngày không như hợp đồng kỳ hạn chỉ thanh toán khi đến hạn.

Hợp đồng tương lai có các đặc điểm sau:

  • Tiêu chuẩn hóa đối với bẩy đồng tiền có lưu lượng giao dịch lớn là: CAD, FRF, DEM, CHF, JPY, GBP, AUD và được mua bán trực tiếp với đồng USD.
  • Quy mô của từng giao dịch được quy định là bội chuẩn theo từng loại đồng tiền giao dịch.
  • Một năm chỉ có 4 ngày giá trị, đó là các ngày thứ tư của tuần thứ ba các

tháng 3, 6, 9, 12.

  • Ký quỹ: Đây là yêu cầu người đặt lênh phải ký quỹ một số tiền ban đầu theo tỷ lệ ký quỹ nhất định vào tài khoản ký quỹ trước khi tiến hành giao dịch và phải

duy trì một số dư tối thiểu trong kỳ hạn hợp đồng. Trong điều kiện tỷ giá biến động bất lợi mà tài khoản kỹ quỹ bị thâm hụt số tiền thì người giao dịch phải bổ sung vào tài khoản để đảm bào duy trì số dư tối thiểu. Giao dịch tương lai thường chỉ được các nhà kinh doanh tiền tệ dùng để tự bảo hiểm hay đầu cơ. Các công ty xuất nhập khẩu không ưa chuộng hình thức giao dịch này vì số tiền và kỳ hạn rất khó khớp với tiêu chuẩn của hợp đồng tương lai cũng như việc thanh toán hàng ngày làm khó khăn cho việc tính toán dòng tiền trong tương lai.

1.1.2.5.    Nghiệp vụ KDNT theo hợp đồng quyền chọn

Đây là giao dịch trong đó người mua có quyền chứ không có nghĩa vụ mua hay bán một số lượng đồng tiền này lấy đồng tiền khác tại một tỷ giá xác định trong một khoảng thời gian xác định. Người bán có trách nhiệm thực hiện giao dịch nếu người mua muốn thực hiện hợp đồng vào ngày đến hạn.

Có hai loại hợp đồng quyền chọn đó là hợp đồng quyền chọn mua (call option) và hợp đồng quyền chọn bán (put option).

  • Quyền chọn mua (call option): là hợp đồng quyền chọn cho phép người mua nó có quyền nhưng không bắt buộc, được mua một số lượng ngoại tệ ở một mức giá và trong một thời hạn xác định trước. Tại thời điểm đến hạn, nếu tỷ giá trên thị trường thấp hơn tỷ giá trong hợp đồng thì người mua quyền sẽ từ chối việc thực hiện hợp đồng và mua ngoại tệ trên thị trường, còn người bán quyền được hưởng khoản chi phí mua quyền. Còn nếu tỷ giá trên thị trường cao hơn tỷ giá trong hợp đồng thì người mua quyền sẽ thực hiện quyền mua ngoại tệ của mình và người bán

quyền có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ số lượng ngoại tệ đã ghi trong hợp đồng.

  • Quyền chọn bán (put option): là hợp đồng quyền chọn cho phép người mua nó có quyền, nhưng không bắt buộc, được bán một số lượng ngoại tệ ở một mức giá và trong thời hạn xác định trước. Hợp đồng này cũng có nguyên lý như hợp đồng quyền chọn mua. Người mua quyền sẽ thực hiện hợp đồng khi tỷ giá trên thị trường thấp hơn tỷ giá trong hợp đồng và không thực hiện hợp đồng khi tỷ giá biến động theo chiều ngược lại.

Như vậy, hợp đồng quyền chọn là một công cụ đảm bảo tỷ giá thực sự cho các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu, các nhà đầu tư. Tham gia vào thị trường quyền chọn, ngoài các ngân hàng, các nhà xuất nhập khẩu còn có các tổ chức kinh tế có ngoại tệ trên tài khoản, muốn tăng thu nhập bằng việc thu các lệ phí quyền và chấp nhận làm đối tác thụ động, hay các hãng đầu cơ tham gia với mục đích thu lợi nhuận chênh lệch.

Nghiệp vụ kinh doanh theo hợp đồng quyền chọn là một hoạt động nghiệp vụ phổ biến và hữu dụng trên thị trường ngoại hối thế giới. Đây không những là công cụ để phòng chống rủi ro do sự biến động bất lợi của tỷ giá mà còn đầu cơ tạo khả

năng kiếm lời rất được ưa chuộng, là sự tổng hợp của nhiều nghiệp vụ nên khắc phục được những nhược điểm của các công cụ khác như nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ, kinh doanh theo kỳ hạn.

Tuy nhiên, để có thể sử dụng có hiệu quả loại công cụ này đòi hỏi thị trường phải phát triển hoàn chỉnh, các chủ thể tham gia thị trường phải có khả năng và điều kiện để phân tích, dự đoán sự biến động của thị trường. Hiện nay, do thị trường hối đoái trong nước còn nhiều hạn chế, phát triển chưa đồng bộ, thiếu thông tin cập nhật nên chưa áp dụng nghiệp vụ kinh doanh này.

1.2.     Hiệu quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHTM

1.2.1.  Các tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHTM

Để đánh giá hiệu quả hoạt động KDNT của các NHTM người ta thường căn cứ vào năm tiêu chí là: doanh số thực hiện, lợi nhuận, sự hài lòng của khách hàng, quy mô hoạt động kinh doanh và việc mở rộng mạng lưới khách hàng và đối tác.

1.2.1.1.    Doanh số thực hiện

Một trong những tiêu chí đầu tiên khi đánh giá hiệu quả kinh doanh của bất cứ một doanh nghiệp hay một NHTM phải kể đến doanh số thực hiện của hoạt động kinh doanh đó. Hoạt động KDNT cũng không phải là một hoạt động kinh doanh ngoại lệ. Để đánh giá hiệu quả của hoạt động kinh doanh ngoại tệ của một NHTM, điều đầu tiên chúng ta có thể xem xét đó là doanh số mua và bán ngoại tệ của NHTM. Thông thường khi doanh số mua và bán ngoại tệ tăng trưởng so với những năm trước đồng nghĩa với việc hoạt động KDNT đã ngày một phát triển, đem lại hiệu quả cao cho ngân hàng. Đương nhiên không phải lúc nào doanh số mua, bán ngoại tệ cũng thể hiện hiệu quả của hoạt động KDNT bởi đôi khi những yếu tố này phụ thuộc vào tình hình chung của thị trường tiền tệ, đồng thời cũng gián tiếp chịu tác động từ nhu cầu của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, tuy vậy nếu hiểu theo một cách đơn giản, khi doanh số mua và bán tăng, nghĩa là doanh thu từ hoạt động này cũng tăng do ngân hàng có thể thu được phí từ khách hàng khi thực hiện hoạt động KDNT. Điều này đồng nghĩa với việc hoạt động KDNT đã đạt hiệu quả nhất định,

1.2.1.2.    Lợi nhuận

Tiêu chí thứ hai có thể dùng để đánh giá hiệu quả KDNT đó là lợi nhuận. Tất cả các doanh nghiệp khi kinh doanh đều coi lợi nhuận là một trong rất nhiều tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp mình. Trong hoạt động KDNT cũng không ngoại trừ điều này bởi một trong những mục tiêu của các ngân hàng khi thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh đó là thu lại được lợi nhuận. Lợi nhuận mà các ngân hàng thu được từ hoạt động KDNT có thể đến từ việc: chênh lệch tỷ giá, thu phí dịch vụ từ khách hàng…

1.2.1.3. Sự hài lòng của khách hàng

KDNT thực chất cũng là một hoạt động dịch vụ để đảm bảo chắc chắn việc thực hiện thanh toán các hợp đồng ngoại thương cho các khách hàng của ngân hàng một cách trôi chảy, thỏa mãn tối đa các nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Bất kỳ khách hàng nào khi đến ngân hàng để thực hiện giao dịch cũng đều kỳ vọng sẽ được ngân hàng đáp ứng được yêu cầu của mình. Các yêu cầu của khách hàng là rất đa dạng và khác nhau. Nhu cầu đó bao gồm việc gửi vốn, vay trả nợ thuận tiện, việc sử dụng các dịch vụ ngân hàng, các thông tin mà ngân hàng đó mang lại… Như vậy, một khách hàng đến giao dịch mua bán ngoại tệ với ngân hàng không phải chỉ vì giá ngoại tệ ở đó rẻ hơn ngân hàng khác, mà còn xem ngân hàng đó có thỏa mãn được mọi nhu cầu hợp lý của mình hay không. Như vậy, ở điểm này, hiệu quả của hoạt động KDNT được xem xét khi ngân hàng có khả năng cung cấp đầy đủ lượng ngoại tệ khi khách hàng có nhu cầu mua hợp lý và khả năng mua hết số ngoại tệ khi khách hàng có nhu cầu bán.

1.2.1.4. Quy mô thực hiện hoạt động kinh doanh ngoại tệ

Quy mô thực hiện hoạt động KDNT mà tác giả để cập ở đây đó là trên phương diện nguồn nhân lực được huy động để thực hiện việc KDNT, số lượng đối tác thực hiện giao dịch trên thị trường tiền tệ, số lượng ngoại tệ thực hiện trong hoạt động KDNT.

Khi đề cập đến số lượng nguồn nhân lực sử dụng trong hoạt động KDNT, không hẳn có nghĩa là một NHTM cứ có nhiều người tham gia vào hoạt động này thì hiệu quả hoạt động này cao. Trong vấn đề này, chúng ta có thể hiểu được rằng,

khi việc thực hiện hoạt động KDNT đem lại kết quả tốt, khả quan cho ngân hàng, đồng thời ngân hàng nhận thức được hiệu quả do hoạt động này mang lại thì quy mô nguồn nhân lực sử dụng vào hoạt động này cũng sẽ được chú trọng tập trung tăng cường nhiều hơn để đáp ứng được với sự phát triển của hoạt động này.

Bên cạnh đó việc mở rộng thêm các đối tác thực hiện hoạt động KDNT cũng phần nào đó thể hiện hiệu quả của hoạt động này bởi lẽ khi có thêm nhiều đối tác nghĩa là chúng ta sẽ có nhiều cơ hội hơn trong việc tham khảo giá đê xác định mức giá tốt nhất để thực hiện. Không những thế, việc mở rộng các đối tác cũng sẽ đồng nghĩa với tăng nguồn cung và cầu ngoại tệ, giúp cho hoạt động này hiệu quả hơn.

Cuối cùng quy mô thực hiện hoạt động KDNT còn bao gồm số lượng ngoại tệ mà ngân hàng đó thực hiện. Càng nhiều loại ngoại tệ được thực hiện càng giảm tỳ lệ rủi ro trong việc thay đổi tỷ giá của các loại tiền tệ. Tuy nhiên, đây không phải là yếu tố quá quan trọng vì trên thực tế, trong hoạt động thanh toán quốc tế, phần lớn các giao dịch được diễn ra thông qua các loại ngoại tệ mạnh, do vậy phần lớn nhu cầu ngoại tệ đều tập trung chủ yếu vào các loại ngoại tệ mạnh như USD, EUR, JPY…

1.2.1.5. Mở rộng mạng lưới khách hàng và đối tác

Khi các nhu cầu của khách hàng được ngân hàng đáp ứng thì lượng khách hàng đến ngân hàng sẽ ngày càng tăng lên, mạng lưới khách hàng càng được mở rộng. Thực hiện tốt các nghiệp vụ KDNT là một trong những chính sách của bất kỳ một ngân hàng nào nhằm tăng cường và mở rộng quan hệ với khách hàng. Thêm vào đó, khi một ngân hàng thực hiện hoạt động KDNT với các đối tác khác, điều này đồng nghĩa với việc nếu thực sự các giao dịch này có hiệu quả thì đây sẽ là tiền đề cho việc hợp tác sau này giữa hai ngân hàng ở trên các lĩnh vực khác nhau. Như vậy có thể thấy rằng một trong những tiêu chí để đánh giá hiệu quả hoạt động KDNT của các ngân hàng đó chính là việc nhờ có hoạt động này mà ngân hàng đó có điều kiện mở mang quan hệ với các ngân hàng đại lý, tăng cường mối quan hệ hợp tác trên mọi lĩnh vực với các ngân hàng trên toàn thế giới để có điều kiện chia sẻ thông tin, trao đổi nghiệp vụ, tiếp cận thị trường mới cũng như tranh thủ được công nghệ ngân hàng, trình độ quản lý tiên tiến từ các quốc gia có nền kinh tế phát

triển, dành cho nhau những ưu đãi trong tín dụng, trong mức phí dịch vụ ngân hàng, trong đào tạo nguồn nhân…

1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHTM

1.2.2.1. Những nhân tố nội tại trong bản thân mỗi ngân hàng thương mại

a/ Nguồn nhân lực

Trong bất kỳ một hoạt động nào, có thể thấy rằng con người luôn đóng vai trò quan trọng nhất bởi chính con người là người tổ chức và thực hiện, quản lý và duy trì các hoạt động đó. Các nhân tố khác chỉ là những phương tiện, công cụ giúp cho con người thực hiện tốt vai trò của mình. Đặc biệt trong lĩnh vực hoạt động KDNT càng đòi hỏi một đội ngũ cán bộ giỏi chuyên môn, am hiểu sâu về nghiệp vụ để theo dõi và phân tích chính xác xu hướng biến đổi của tỷ giá để thực hiện việc kinh doanh một cách hiệu quả, đem lại lợi nhuận cho khách hàng. Trong xu thế hiện nay, các cán bộ KDNT vừa phải giỏi chuyên môn nghiệp vụ, có khả năng phân tích thị trường, bên cạnh đó cũng cần phải có khả năng sử dụng các trang thiết bị máy móc, khoa học công nghệ để hỗ trợ hoạt động KDNT một cách tốt nhất. Hiện nay, trước xu thế hiện đại hóa, các ngân hàng đều giao dịch với nhau thông qua mạng máy tính và vì đây là giao dịch không chỉ giới hạn ở biên giới quốc gia mà nó còn là giao dịch trên toàn cầu, do đó những ngôn từ được sử dụng trong giao dịch dều được chuẩn hóa bằng ngôn ngữ thông dụng là tiếng anh để tạo điều kiện thuận lợi cho tất cả các đối tác cho thể tham gia. Từ đó có thể thấy, nếu nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động KDNT không đáp ứng được những nhu cầu nói trên, hoạt động KDNT sẽ không thể có kết quả tốt được.

b/ Cơ sở vật chất kỹ thuật

Bên cạnh nguồn lực chủ chốt là con người thì yếu tố cơ sở vật chất cũng đóng một vai trò hết sức quan trọng vì nó chính là những thiết bị cần thiết để hỗ trợ việc thực hiện hoạt động này. Ngày nay với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và việc ứng dụng nó trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống và đặc biệt lĩnh vực công nghệ thông tin đã được ứng dụng một cách rộng rãi trong kinh doanh ngân hàng cũng như trong lĩnh vực KDNT. Các ngân hàng hiện nay khi thực hiện giao dịch KDNT

với nhau đều thông qua một hệ thống REUTER hoặc các phần mềm tích hợp riêng phục vụ cho mục đích cua hoạt động này. Các ngân hàng nếu muốn thực hiện giao dịch đều phải có những phương tiện, cơ sở máy móc, hạ tầng phù hợp để kết nối được với nhau. Do vậy, có thể thấy để thực hiện được hoạt động KDNT yếu tố cơ sở vật chất kỹ thuật là một nhân tố không thể thiếu.

c/ Quy trình và thủ tục thực hiện hoạt động KDNT

Quy trình và thủ tục thực hiện hoạt động KDNT chính là những quy định riêng của ngân hàng về cách thức để thực hiện hoạt động này bên cạnh những quy định pháp luật của nhà nước. Những quy trình và thủ tục này cũng giúp các ngân hàng thực hiện các giao dịch theo một chuẩn mực quy định sẵn, tạo điều kiện cho các giao dịch viên có thể biết cách để thực hiện đúng một giao dịch. Quy trình và thủ tục cần phải tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện giao dịch, đồng thời cũng khiến khách hàng thấy đơn giản, không phức tạp, tuy vậy bên cạnh đó cũng cần phải có tính chặt chẽ, có khả năng kiếm soát tốt, hạn chế rủi ro trong hoạt động KDNT. Bên cạnh đó những quy định trong đó cũng phải phù hợp với điều kiện của từng ngân hàng và từng giai đoạn phát triển của thị trường ngoại hối.

d/ Các nghiệp vụ khác của NHTM có ảnh hưởng tới hoạt động KDNT

Các NHTM ngoài những nghiệp vụ có liên quan đến VNĐ còn có các hoạt động liên quan đến ngoại tệ như: huy động vốn bằng ngoại tệ, mua bán ngoại tệ, thanh toán quốc tế… Có thể thấy rằng các nghiệp vụ này có mối quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau; phát triển nghiệp vụ này sẽ có điều kiện mở rộng và phát triển các nghiệp vụ khác. Trong đó hoạt động thanh toán quốc tế và cho vay thanh toán hàng xuất nhập khẩu có ảnh hưởng nhiều và trực tiếp đến hoạt động KDNT.

Thanh toán quốc tế là việc thực hiện thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu đều bằng ngoại tệ. Vì vậy đều phải liên quan đến nghiệp vụ KDNT.

Cho vay ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ hay sản xuất ra hàng xuất khẩu thì cuối cùng cũng phát sinh nghiệp vụ mua ngoại tệ để trả nợ tiền vay, hoặc bán ngoại tệ lấy VNĐ. Vì vậy, việc mở rộng cho vay thanh toán hàng xuất khẩu sẽ

tạo điều kiện để phát triển nghiệp vụ KDNT và qua đó thúc đẩy hiệu quả nghiệp vụ này.

Bên cạnh đó, hoạt động kiều hối cũng có thể sẽ là một nghiệp vụ ảnh hưởng đến hoạt động KDNT khi mà các ngân hàng có thể tập trung khai thác, thu hút những khách hàng đến nhận lượng kiều hối này bán lại cho ngân hàng. Điều này sẽ tăng thêm nguồn cung ngoại tệ cho các ngân hàng. Bên cạnh đó, đây là những khách hàng thường xuyên có người thân từ nước ngoài gửi tiền về, do đó đây cũng là mảng hoạt động ít nhiều ảnh hưởng đến hoạt động KDNT.

Tóm lại, các nghiệp vụ nói trên ít nhiều đều có ảnh hưởng đến hiệu quả nghiệp vụ KDNT của các NHTM. Các hoạt động này thường có tốc độ phát triển gần ngang nhau, theo chiều hướng tỷ lệ thuận.

e/ Hệ thống quản trị rủi ro

Tất cả các hoạt động kinh doanh luôn tiềm ẩn những rủi ro. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ cũng vậy, nó chứa đựng những rủi ro mãnh liệt tới mức nếu không quản lý được những rủi ro đó, nó có thể làm tiêu tan, làm sụp đổ cả một hệ thống ngân hàng. Đã có những bài học xương máu trên thế giới và ở Việt Nam mà qua đó chúng ta càng ý thức được tầm quan trọng của việc ngăn ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại các Ngân hàng thương mại. Ngoài các rủi ro thông thường mà các hoạt động khác cũng phải đối mặt như: rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro kỹ thuật, rủi ro hoạt động, rủi ro pháp lý, rủi ro quốc gia… thì kinh doanh ngoại tệ còn phải chịu một rủi ro rất đặc biệt, đó là rủi ro tỷ giá. Do tỷ giá biến động thường xuyên và vô lối, nên rủi ro tỷ giá được xem là rủi ro thường trực và đặc trưng của hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các ngân hàng. Như vậy có thể thấy, một trong những nhân tố ảnh hưởng khá lớn đến hiệu quả KDNT của một ngân hàng đó là việc ngân hàng đó có khả năng quản trị, hạn chế và phòng ngừa các rủi ro xảy ra trong việc thực hiện hoạt động KDNT của mình hay không. Điều này không phải dễ thực hiện vì việc quản trị rủi ro sẽ phải được thực hiện, phối hợp giữa các phòng ban, đồng thời việc đưa ra những biện pháp để phòng ngừa rủi ro cũng cần linh hoạt và đúng đắn, phù hợp với xu hướng phát triển cùa hoạt động KDNT trong từng thời kỳ

1.2.2.2. Những nhân tố bên ngoài ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động KDNT của NHTM

a/ Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và quốc tế

Thực tế cho thấy, các nước có nền kinh tế phát triển thì hoạt động KDNT cũng phát triển. Sự phát triển này ban đầu nhằm đáp ứng các nhu cầu thương mại quốc tế đến một trình độ nào đó các ngân hàng kinh doanh cho chính mình để kiếm lời và bảo hiểm rủi ro. Còn ở các nước đang phát triển, hoạt động KDNT cũng đơn giản, nhu cầu giao dịch ngoại tệ không lớn, trình độ các thành viên tham gia thị trường cũng hạn chế.

Một quốc gia có tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ổn định, vững mạnh sẽ là một môi trường tốt cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước, là một yếu tố thuận lợi thúc đẩy phát triển kinh tế cùng với các hoạt động tài chính tiền tệ. Trên cơ sở đó, đồng bản tệ của quốc gia này sẽ có giá trị và ổn định trên thị trường, giành được một tỷ giá hối đoái thuận lợi trong trao đổi KDNT với nước ngoài. Hoạt động ngoại thương phát triển dẫn đến hoạt động thanh toán quốc tế phát triển, góp phần không nhỏ thúc đẩy hoạt động KDNT vì buôn bán với nước ngoài là bộ phận lớn tuyệt đối trong việc cung và cầu ngoại tệ. Ngược lại, một quốc gia có nền kinh tế không ổn định, tình hình chính trị, xã hội rối ren, có nhiều mâu thuẫn xung đột, nội chiến về đảng phái, sắc tộc… chẳng những sẽ kìm hãm tốc độ phát triển mà còn làm giảm sút hiệu quả của việc buôn bán và hợp tác quốc tế. Trong điều kiện như vậy, mọi yếu tố như cung cầu ngoại tệ, sự biến động của tỷ giá và sự tồn tại của thị trường hối đoái sẽ không còn ý nghĩa sâu sắc.

Như trường hợp của Việt Nam, trước Đại hội Đảng VI (1986), nền kinh tế nước ta là nền kinh tế tự cung tự cấp, khép kín với thị trường quốc tế và chia cắt giữa các địa phương trong nước, buôn bán chủ yếu diễn ra với các nước XHCN, kim ngạch xuất khẩu thấp, đầu tư nước ngoài bị hạn chế, tỷ giá bị Nhà nước cố định… Tất cả những nhân tố trên có tác động tiêu cực đến kinh tế đối ngoại của Việt Nam, chẳng những kìm hãm tốc độ phát triển mà còn làm giảm sút hiệu quả của việc buôn bán và hợp tác quốc tế. Trong điều kiện như vậy, mọi yếu tố như cung cầu ngoại tệ, các yếu tố tác động đến tỷ giá, sự biến động của tỷ giá và sự tồn tại của thị trường hối đoái là không cần thiết đối với các doanh nghiệp trong nước cũng

như trong quan hệ kinh tế với nước ngoài. Vì vậy, hoạt động KDNT của các NHTM không có môi trường, điều kiện để phát triển mở rộng cũng như nâng cao hiệu quả.

Trong quá trình đổi mới hiện nay, việc phát triển nền kinh tế thị trường, đổi mới các chính sách kinh tế ngoại thương, ngoại hối, từ bỏ chế độ tỷ giá cố định là xu thế tất yếu khi nền kinh tế nước ta từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới, góp phần không nhỏ thúc đẩy hoạt động KDNT; từ đó nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ này trong các NHTM.

Những yếu tố cơ bản trên đây có mối quan hệ chặt chẽ, đan xen nhau và cùng tác động tổng thể nhiều chiều tới hoạt động KDNT của các NHTM. Môi trường kinh tế – xã hội phát triển ổn định là cơ sở đẩy mạnh hoạt động đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu và lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ của các doanh nghiệp; đồng thời tạo tiền đề thúc đẩy thị trường ngoại hối hình thành và phát triển, giúp các NHTM mở rộng và đa dạng hóa các nghiệp vụ KDNT. Hệ thống các cơ chế điều hành tỷ giá và lãi suất của NHNN chính là các công cụ có tính chất pháp lý điều tiết các hoạt động kinh doanh trên thị trường. Do đó, cần tiến hành phân tích tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng trên cũng như phải biết vận dụng cơ chế của nhà nước, chủ động nắm bắt sự biến động của cung cầu ngoại tệ và tỷ giá hối đoái, nghiên cứu thực trạng hoạt động của thị trường tài chính, ngoại hối trước khi quyết định thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh để vừa phục vụ được khách hàng, vừa đảm bảo có lãi trong KDNT.

b/ Chính sách quản lý ngoại hối của Nhà nước

Nội dung của chính sách này là thực hiện tự do hóa ngoại thương và ngoại hối với cơ chế thị trường. Vai trò của Chính phủ là điều tiết, quản lý ở tầm vĩ mô, không hạn chế hay quản lý gắt gao ngoại hối cũng như ngoại thương, hoàn toàn xóa bỏ hàng rào thương mại. Các luồng vận động của hàng hóa, dịch vụ cũng như luồng vận động của ngoại hối nói chung phụ thuộc vào cơ chế điều tiết của thị trường và quy luật cung cầu. Với cơ chế quản lý ngoại hối này, hoạt động KDNT của các NHTM có cơ hội để phát triển với tốc độ cao, mở rộng cả về quy mô, số lượng và loại hình. Tuy nhiên, sự đa dạng và bình đẳng của các NHTM tham gia vào thị trường hối đoái đã gây sức ép, tăng sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường.

Như vậy, chính sách quản lý ngoại hối có tác động mạnh mẽ tới sự phát triển của thị trường ngoại hối và hoạt động KDNT của ngân hàng. Việc áp dụng chế độ quản lý ngoại hối chặt chẽ đến mức nào phụ thuộc vào điều kiện của từng nước. Một chính sách quản lý ngoại hối đúng đắn và phù hợp trong từng thời kỳ sẽ đóng vai trò là đòn bẩy khuyến khích phát triển ngoại thương, hợp tác kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài, qua đó thúc đẩy hoạt động KDNT của các NHTM. Ngược lại, chính sách quản lý ngoại hối cứng nhắc, không hợp lý sẽ gây nhiều trở ngại, kìm hãm hoạt động KDNT, cản trở sự phát triển của thị trường hối đoái.

c/ Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái của Ngân hàng Nhà nước

Tỷ giá hối đoái, mặc dù đã có lịch sử lâu dài trong các giai đoạn phát triển của nhân loại, nhưng cho đến nay vẫn còn là vấn đề hết sức phức tạp. Sự phức tạp được thể hiện trên hai phương diện: Một là ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài (tình hình kinh tế, thị trường tài chính quốc tế và chính sách can thiệp của các nước…) và các yếu tố này không nằm trong tầm khống chế của một quốc gia. Hai là sự tương tác nhiều chiều của các chính sách kinh tế, tài chính, tiền tệ ở mỗi nước. Hình thức biểu hiện tổng hợp về sự tương tác từ hai phương diện trên chính là quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Nói chung có rất nhiều yếu tố tác động lên tỷ giá hối đoái, một số yếu tố cơ bản là:

  • Sức mua của các đơn vị tiền tệ và tốc độ lạm phát ở các nước hữu quan.
  • Trạng thái cán cân thanh toán quốc tế ảnh hưởng trực tiếp đến cung cầu ngoại tệ thông qua đó tác động lên tỷ giá.
  • Chênh lệch lãi suất giữa các nước, giữa thị trường tín dụng nội địa và quốc

tế.

  • Một số các nhân tố tác động lên cung cầu ngoại tệ qua đó ảnh hưởng đến tỷ giá như các cú sốc chính trị, thói quen tâm lý, các nhân tố xã hội…

Đến lượt mình, bất kỳ một biến động nhỏ của tỷ giá hối đoái cũng tác động tới rất nhiều lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân như các hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư nước ngoài, tình hình lạm phát… Tất cả các nhân tố này lại ảnh hưởng, chi phối trực tiếp đến hoạt động KDNT của các NHTM nói riêng và thị trường ngoại hối nói

chung. Do đó có thể nói biến động của tỷ giá có tác động sâu, nhiều chiều tới hoạt động KDNT của các NHTM.

d/ Trạng thái ngoại tệ

Đối với Ngân hàng thương mại, trạng thái ngoại hối (Foreign Exchange Position) của mỗi ngoại tệ là chênh lệch giữa tổng tài sản có và tổng tài sản nợ (gồm cả nội bảng và ngoại bảng) của ngoại tệ đó tại một thời điểm nhất định.

Các giao dịch liên quan đến ngoại tệ được chia làm hai nhóm: Nhóm làm phát sinh sự chuyển giao quyền sử dụng và nhóm làm phát sinh sự chuyển giao quyền sở hữu về ngoại tệ. Trong đó, chỉ những giao dịch làm phát sinh sự chuyển giao quyền sở hữu thì mới làm phát sinh trạng thái ngoại tệ. Theo đó, bao gồm các giao dịch sau:

Mua, bán ngoại tệ (giao ngay và kỳ hạn).

Thu, chi lãi suất bằng ngoại tệ.

Các khoản thu, chi phí dịch vụ bằng ngoại tệ.

Các khoản cho, tặng, biếu, viện trợ bằng ngoại tệ.

Các khoản ngoại tệ bị mất, rách, nát, hư hỏng không còn giá trị.

Những giao dịch làm phát sinh tăng quyền sở hữu về ngoại tệ đều làm phát sinh trạng thái trường hay còn gọi là trạng thái dương của ngoại tệ đó (Long The Foreign Currency – LFC) và những giao dịch làm phát sinh giảm quyền sở hữu về ngoại tệ đều làm phát sinh trạng thái đoản hay còn gọi là trạng thái âm của ngoại tệ đó (Short The Foreign Currency – SFC).

Trạng thái ngoại tệ của mỗi ngân hàng thường được xác định vào cuối mỗi ngày. Nó được tính trên cơ sở trạng thái ngoại tệ ngày hôm trước và chênh lệch giữa doanh số mua vào, doanh số bán phát sinh trong ngày của ngoại tệ đó, bao gồm cả giao dịch giao ngay và kỳ hạn. Trạng thái ngoại tệ cũng ảnh hưởng tới hoạt động KDNT do việc thực hiện hoạt động này sẽ phải phụ thuộc vào hạn mức trạng thái ngoại tệ mà mỗi đơn vị được phép thực hiện.

CHƢƠNG 2: ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGOẠI TỆ TẠI NHNO&PTNT VN

2.1. Tình hình hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại NHNo&PTNT VN

2.1.1. Sự hình thành và phát triển của NHNo&PTNT VN

2.1.1.1. Sự hình thành

NHNo&PTNT Việt Nam được thành lập vào năm 19884 với tên gọi ban đầu là “Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam” theo Nghị định số 53/HĐBT ngày 26/3/1988 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về việc thành lập các ngân hàng chuyên doanh, trong đó có Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Ngày 14/11/1990, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) ký Quyết định số 400/CT thành lập Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam thay thế Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam. Ngân hàng Nông nghiệp là Ngân hàng thương mại đa năng, hoạt động chủ yếu trên lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, là một pháp nhân, hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước pháp luật. Tiếp theo đó, đến những năm 1991, 1992, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã lần lượt cho phép Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam mở thêm các văn phòng đại diện và các chi nhánh ở trên khắp các tỉnh thành trong cả nước. Ngày 30/7/1994 tại Quyết định số 160/QĐ-NHNN, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp thuận mô hình đổi mới hệ thống quản lý của Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam, trên cơ sở đó, Tổng giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam cụ thể hóa bằng văn bản số 927/TCCB/Ngân hàng Nông nghiệp ngày 16/08/1994 xác định: Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam có 2 cấp: Cấp tham mưu và Cấp trực tiếp kinh doanh. Đây thực sự là bước ngoặt về tổ chức bộ máy của Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam và cũng là nền tảng cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam sau này. Ngày 15/11/1996, được Thủ tướng Chính phủ ủy quyền, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ký Quyết định số 280/QĐ-NHNN đổi tên Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam thành Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam.

  • Nguồn: Lịch sử hình thành của NHNo&PTNT VN trên website:www.agribank.com.vn

 

2.1.1.2. Sự phát triển

Khi mới thành lập, Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt nam đối mặt với nhiều khó khăn tưởng chừng không vượt qua nổi. Trong tổng số trên 36.000 cán bộ lúc đó chỉ có 10% trình độ đại học, cao đẳng còn lại là trung cấp, sơ cấp hoặc chưa được đào tạo. Tổng tài sản chưa tới 1.500 tỷ đồng. Tổng nguồn vốn 1.056 tỷ đồng, trong đó vốn huy động chỉ chiếm 42% còn lại 58% phải vay từ Ngân hàng nhà nước. Tổng dư nợ 1.126 tỷ đồng, trong đó 93% là ngắn hạn; tỷ lệ nợ xấu trên 10%5. Khách hàng hoàn toàn là các doanh nghiệp quốc doanh và các hợp tác xã phần lớn là làm ăn thua lỗ, lao động thiếu việc làm, nguy cơ phá sản luôn rình rập.

Đối mặt với thách thức, ngay từ ngày đầu Ngân hàng phát triển nông nghiệp triển khai một số giải pháp mạnh nhằm chuyển hướng thành một ngân hàng thương mại tự chủ. Đó là: tập trung đầu tư cho kinh doanh lương thực; mạnh dạn thí điểm cho vay trực tiếp đến hộ nông dân; … Với những cố gắng này, Ngân hàng Phát triển nông nghiệp đã từng bước xác lập được vị thế trong hệ thống ngân hàng.

Năm 1990, Pháp lệnh ngân hàng ra đời đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình đổi mới ngành ngân hàng. Hệ thống ngân hàng phân thành hai cấp: Ngân hàng nhà nước với chức năng ngân hàng trung ương và các ngân hàng thương mại kinh doanh theo cơ chế thị trường. Chuyển sang hoạt động theo cơ chế độc lập, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, Ngân hàng Nông nghiệp Việt nam thực sự đối mặt với nguy cơ phá sản. Đứng trước lựa chọn tồn tại hay phá sản, toàn hệ thống Ngân hàng nông nghiệp đã đoàn kết một lòng, kiên quyết thực thi các biện pháp quyết liệt đó là: tinh giảm gần 10.000 cán bộ chỉ trong vòng 1 năm; mạnh dạn triển khai cơ chế khoán tài chính đến chi nhánh và người lao động; thể chế hoá hoạt động cho vay hộ nông dân được thí điểm thành công trước đó; tăng cường liên kết với các tổ chức đoàn thể đặc biệt là Hội nông dân, Hội phụ nữ trong việc chuyển tải vốn đến các hộ nông dân; mở rộng kinh doanh đa năng và kinh doanh đối ngoại; phát triển quan hệ quốc tế. Ngân hàng Nông nghiệp Việt nam cũng chính là người sáng lập Quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo và Ngân hàng phục vụ người nghèo – tiền thân của Ngân hàng chính sách xã hội sau này. Với các quyết sách đột phá này, từ năm 1993, Ngân hàng

  • Nguồn: Các số liệu đuợc lấy từ “Diễn văn kỷ niệm 20 năm thành lập NHNo&PTNT VN” của nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị NHNo&PTNT VN Nguyễn Thế Bình

 

Nông nghiệp Việt nam đã bắt đầu hoạt động có lãi và thực sự chuyển mình thành một ngân hàng thương mại kinh doanh đa năng, có uy tín trong nước.

Bước sang giai đoạn lịch sử mới với việc đổi tên thành Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt nam hoạt động theo mô hình Tổng công ty, từ năm 1996 hoạt động của Agribank có sự thay đổi về chất, vừa kế thừa và phát huy truyền thống, vừa tạo được những yếu tố đột phá trên nhiều phương diện về năng lực tài chính, công nghệ, tổ chức, cán bộ và quản trị điều hành hướng đến chuẩn mực, thông lệ hiện đại.

Bằng những giải pháp mang tính đột phá và cách làm mới, NHNo&PTNT VN đã thực sự khởi sắc. Đến cuối năm 2007, tổng tài sản đạt đạt 325.802 tỷ đồng tương đương với 20 tỷ USD gấp gần 220 lần so với ngày đầu thành lập. Tổng dư nợ và đầu tư nền kinh tế đạt 281.000 tỷ đồng, trong đó: cho vay nông nghiệp, nông thôn chiếm trên 70% với trên 10 triệu hộ gia đình; cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm trên 36% với gần 3 vạn doanh nghiệp dư nợ. Tổng nguồn vốn 295.048 tỷ đồng và gần như hoàn toàn là vốn huy động6.

Về công nghệ: tạo bước đột phá trong triển khai các dự án tin học để đến hôm nay hình thành nền móng công nghệ cơ bản cho một ngân hàng hiện đại, kết nối trực tuyến toàn hệ thống; cho phép triển khai và ứng dụng tất cả các dịch vụ ngân hàng hiện đại như Thẻ quốc tế; Internet Banking; ..

Về con người: ưu tiên cho đào tạo và đào tạo lại, đặc biệt là đào tạo kỹ năng, nâng tầm quản lý của đội ngũ lãnh đạo chủ chốt theo các chuẩn mực ngân hàng tiên tiến. Đến nay, trong tổng số trên 3 vạn cán bộ, gần 70% có trình độ đại học, trên đại học và cao đẳng; 80% có trình độ vi tính cơ bản

Về tài chính: xây dựng một nền tài chính mạnh. Lợi nhuận hàng năm tăng đều và vững chắc; hoàn thành tốt nghĩa vụ với ngân sách nhà nước; đảm bảo thu nhập và đời sống cán bộ không ngừng cải thiện nhưng vẫn đủ sức trích hình thành quỹ dự phòng rủi ro hàng ngàn tỷ đồng mỗi năm.

  • Nguồn: Các số liệu đuợc lấy từ “Diễn văn kỷ niệm 20 năm thành lập NHNo&PTNT VN” của nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị NHNo&PTNT VN Nguyễn Thế Bình

 

Về mô hình hoạt động: ngoài 2.000 chi nhánh và phòng giao dịch, NHNo&PTNT VN hiện có 8 công ty trực thuộc kinh doanh trên các lĩnh vực khác nhau như chứng khoán, vàng bạc, cho thuê tài chính, bảo hiểm, in thương mại, du lịch,.. và đầu tư vào hàng chục các doanh nghiệp khác. NHNo&PTNT VN kinh doanh đa năng đang dần tiến tới một tập đoàn tài chính đa ngành, đa lĩnh vực trên cơ sở 3 trụ cột Ngân hàng – Chứng khoán – Bảo hiểm.

Về đối ngoại: cùng với việc tăng cường hợp tác với các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế, các tổng công ty hình thành các đối tác chiến lược trong nước, NHNo&PTNT VN chủ động mở rộng và khai thác có hiệu quả các mối quan hệ quốc tế: thu hút và triển khai hàng trăm dự án đầu tư nước ngoài cho nông nghiệp, nông thôn với tổng số vốn gần 4 tỷ USD được các tổ chức tài chính quốc tế như WB(Ngân hàng thế giới), ADB (Ngân hàng phát triển châu Á), .. đánh giá cao; xúc tiến quan hệ đối tác chiến lược với các tập đoàn, ngân hàng lớn trên thế giới; trú trọng duy trì và phát triển quan hệ với các hiệp hội ngân hàng khu vực và quốc tế nhằm chia sẻ, học hỏi, chuyển giao kiến thức, công nghệ ngân hàng tiên tiến. Qua đó vị thế và uy tín của NHNo&PTNT VN trong khu vực và trên trường quốc tế được khẳng định.

Như vậy có thể thấy NHNo&PTNT VN từ khi thành lập đến nay luôn cố gắng thay đổi, phát triển cho phù hợp với xu thế của thị trường nhằm khẳng định vai trò là ngân hàng thương mại lớn nhất, giữ vai trò chủ đạo, trụ cột đối với nền kinh tế đất nước, đặc biệt đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn; thực hiện sứ mệnh quan trọng dẫn dắt thị trường; đi đầu trong việc nghiêm túc chấp hành và thực thi các chính sách của Đảng, Nhà nước, sự chỉ đạo của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về chính sách tiền tệ, đầu tư vốn cho nền kinh tế. Trong những năm gần đây, NHNo&PTNT VN còn được biết đến với hình ảnh của một ngân hàng hàng đầu cung cấp các sản phẩm dịch vụ tiện ích, hiện đại. Bước vào giai đoạn mới hội nhập sâu hơn, toàn diện hơn, nhưng đồng thời cũng phải đối mặt nhiều hơn với cạnh tranh, thách thức sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào ngày 07/11/2006 và cam kết mở cửa thị trường trong nước trong đó có thị trường cung cấp dịch vụ, ngân hàng. NHNo& PTNT VN xác định kiên trì mục tiêu và định hướng phát triển theo hướng Tập đoàn tài chính – ngân hàng mạnh, hiện

đại có uy tín trong nước, vươn tầm ảnh hưởng ra thị trường tài chính khu vực và thế giới. Do vậy, NHNo&PTNT VN đã nỗ lực không ngừng, đặc biệt là nỗ lực đẩy mạnh hoạt động KDNT. Hoạt động KDNT của NHNo&PTNT VN được phân tích dưới đây theo quy trình hoạt động và theo tình hình KDNT.

2.1.2. Quy trình kinh doanh ngoại tệ của NHNo&PTNT VN

2.1.2.1. Hoạt động KDNT tại NHNo&PTNT VN được phân cấp theo hai cấp quản lý:

Tại NHNo&PTNT VN hoạt động kinh doanh ngoại hối nói riêng và các hoạt động kinh doanh thuộc nghiệp vụ ngân hàng quốc tế được thống nhất quản lý và điều hành thông qua Ban Quan hệ quốc tế dưới sự chỉ đạo chung của Phó Tổng Giám đốc phụ trách kinh doanh đối ngoại được Tổng giám đốc ủy quyền. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHNo&PTNT VN được thực hiện và phân cấp theo hai khối có nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau. Một là Sở giao dịch, hai là hệ thống các chi nhánh cấp một (CN cấp I). Sở giao dịch là đơn vị đầu mối và duy nhất được thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối đầy đủ như luật định. Các CN cấp I hoạt động theo sự phân cấp ủy quyền của Tổng Giám đốc và hiện nay chỉ đơn thuần là mua bán ngoại tệ của các khách hàng cá nhân và các tổ chức kinh tế để mua bán lại với giao dịch hoặc cho khách hàng phục vụ nhu cầu thanh toán xuất nhập khẩu và chuyển tiền cá nhân. Đối với giao dịch liên ngân hàng, các CN cấp I chỉ được phép mua chứ không được phép bán. Như vậy có thể thấy, Sở giao dịch là đại diện cho NHNo&PTNT VN mua, bán ngoại tệ với Ngân hàng nhà nước và các ngân hàng khác trên thị trường hối đoái liên ngân hàng trong và ngoài nước, sau đó sẽ thực hiện vai trò đầu mối của mình trong điều hoà và kinh doanh ngoại tệ trong toàn hệ thống NHNo &PTNT VN.

NHNo&PTNT VN cũng như các NHTM khác, muốn thực hiện hoạt động KDNT phải được sự cho phép của NHNN. NHNN cũng quy định cụ thể những hoạt động KDNT mà NHNo&PTNT VN được phép thực hiện (xem Bảng 2.1 ở trang tiếp theo).

Bảng 2.1: Quy định về những hoạt động KDNT mà NHNo&PTNT VN đƣợc phép thực hiện với các đối tƣợng đƣợc phép tham gia thị trƣờng ngoại

hối

    Tổ chức tín dụng Tổ chức kinh tế Tổ chức khác, cá
        nhân
         
Giao ngay   Được phép Được phép Được phép
         
Kỳ hạn   Được phép Được phép Được phép
         
Hoán đổi   Được phép Được phép Không được phép
         
Quyền chọn*   Được phép Được phép Được phép
         
Giao dịch ngoại   Xin phép Xin phép Xin phép
hối khác        
         
  (Nguồn: Quy trình thực hiện hoạt động KDNT của Sở giao dịch)

Chú thích: Mục Quyền chon*: nếu giao dịch quyền chọn giữa các đồng ngoại tệ (không liên quan VND) thì được phép. Nếu giao dịch quyền chọn giữa một ngoại tệ với VND thì phải xin phép NHNN.

Bảng 2.2: Quy định về các giao dịch mà các chi nhánh của NHNo&PTNT

VN đƣợc phép thực hiện

  Đầu cơ Giao dịch Giao dịch Giao dịch Giao dịch
    với khách với tổ chức với liên với liên
    hàng kinh tế ngân hàng ngân hàng
        trong nƣớc ngoài nƣớc
           
Sở giao Được phép Được phép Được phép Được phép Được phép
dịch          
           
Chi nhánh Không Được phép Được phép Được Không
        mua/Không  
        được bán  
           
  (Nguồn: Quy trình thực hiện hoạt động KDNT của Sở giao dịch)

 

Bảng 2.3: Quy định về các hoạt động KDNT mà các chi nhánh

NHNo&PTNT VN đƣợc phép thực hiện

    Tổ chức tín dụng Tổ chức kinh tế Tổ chức khác, cá
        nhân
         
Giao ngay   Được mua Được phép Được phép
         
Kỳ hạn   Được mua Được phép Được phép
         
Hoán đổi   Không Được phép Không được phép
         
Quyền chọn   Không Phải xin phép Chỉ được bán
        quyền chọn và phải
        xin phép
         
Giao dịch ngoại   Không Không Không
hối khác        
         
  (Nguồn: Quy trình thực hiện hoạt động KDNT của Sở giao dịch)

Nhìn trên Bảng 2.2 và Bảng 2.3 ta có thể thấy Sở giao dịch là đơn vị duy nhất được phép thực hiện tất cả các giao dịch với các cá nhân, tổ chức kinh tế và với thị trường liên ngân hàng trong và ngoài nước, đồng thời cũng là đơn vị duy nhất được phép thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ KDNT. Các chi nhánh còn lại của NHNo&PTNT VN chủ yếu thực chỉ được phép thực hiện giao dịch với khách hàng (cá nhân hoặc tổ chức kinh tế), còn đối với thị trường liên ngân hàng các chi nhánh chỉ được phép thực hiện giao dịch mua ngoại tệ (trong trường hợp có giá cạnh tranh hơn so với việc thông qua đầu mối là Sở giao dịch hoặc tại những thời điểm khan hiếm ngoại tệ). Bên cạnh đó, nghiệp vụ KDNT mà các chi nhánh chủ yếu được phép thực hiện là hoạt động KDNT giao ngay và kỳ hạn. Tóm lại, việc thực hiện KDNT tại các chi nhánh mới chủ yếu dừng lại ở việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng, còn việc KDNT tại Sở giao dịch bên cạnh việc tự doanh như một chi nhánh thì nhiệm vụ quan trọng nhất là điều hòa và cung ứng đủ ngoại tệ cho nhu cầu của toàn hệ thống.

Cụ thể, Sở giao dịch được NHNo&PTNT VN giao cho những chức năng và nhiệm vụ liên quan đến hoạt động KDNT như sau:

  • Chức năng:
  • Đầu mối trong việc thực hiện các nghiệp vụ quản lý và kinh doanh vốn, các lệnh điều hòa vốn (bao gồm cả ngoại tệ), dự trữ bắt buộc, tỷ giá, mua bán ngoại tệ trạng thái ngoại hối trong toàn hệ thống NHNo&PTNT VN.
  • Trực tiếp kinh doanh vốn, KDNT trên thị trường trong nước và quốc tế.
  • Nhiệm vụ:
  • Thực hiện các quy định của NHNN Việt Nam về tỷ giá, dự trữ bắt buộc, quản lý trạng thái ngoại hối; Mua bán ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng trong, ngoài nước, đầu mối điều hòa và KDNT mặt trong hệ thống NHNo&PTNT VN.
  • Đại diện cho NHNo&PTNT VN tham gia giao dịch trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn liên ngân hàng trong nước và quốc tế, thị trường mở, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc và các giấy tờ có giá khác.
  • Đầu mối thực hiện mua bán ngoại tệ với các chi nhánh trong hệ thống

NHNo&PTNT VN. Đại diện cho NHNo&PTNT VN mua bán ngoại tệ với NHNN, các ngân hàng khác trên thị trường hối đoái liên ngân hàng trong nước và quốc tế.

  • Theo dõi đánh giá kết quả KDNT, kiểm tra và tổng hợp báo cáo định kỳ về hoạt động KDNT của toàn hệ thống..

2.1.2.2. Các bước thực hiện nghiệp vụ KDNT tại Sở giao dịch

Hiện tại NHNo&PTNT VN. chưa có quy trình chung quy định cụ thể về việc thực hiện nghiệp vụ KDNT, vì đầu mối được tập trung tại Sở giao dịch nên việc KDNT được diễn ra chủ yếu tại đầu mối này và tuân theo quy trình nội bộ của Sở giao dịch.

a/ Xây dựng tỷ giá mua bán ngoại tệ và tỷ giá hạch toán

Hàng ngày, vào đầu giờ làm việc, cán bộ giao dịch của phòng KDNT Sở giao dịch lấy tỷ giá USDVND bình quân liên ngân hàng do NHNN công bố qua điện thoại, căn cứ theo tỷ giá thực tế trên Reuters, căn cứ theo cung cầu ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng của ngày làm việc trước đó, căn cứ theo trạng thái ngoại tệ thực tế của NHNo&PTNT VN và sau khi tham khảo tỷ giá của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và một số ngân hàng khác sẽ tiến hành lập bảng tỷ giá giao ngay. Bảng tỷ giá bao gồm cả tỷ giá mua vào và tỷ giá bán ra, tỷ giá tiền mặt và tỷ giá

chuyển khoản của từng loại ngoại tệ so với đồng Việt Nam theo phương pháp yết giá trực tiếp. Sau khi được lãnh đạo phòng và Giám đốc phê duyệt, bảng tỷ giá này sẽ được truyền lên trang Web của NHNo&PTNT VN cũng như trang Web nội bộ làm căn cứ để các chi nhánh NHNo&PTNT VN tham khảo, dựa vào đó yết giá giao dịch với khách hàng. Trong trường hợp tỷ giá USDVND thực tế trên thị trường liên ngân hàng hoặc tỷ giá các loại ngoại tệ khác trên Reuters biến động vượt ra khỏi biên độ giá mà Sở giao dịch đã yết vào đầu ngày thì cán bộ giao dịch sẽ trình lãnh đạo phòng KDNT quyết định yết và thông báo lại bảng tỷ giá mới. Đối với những giao dịch đã phát sinh từ những ngày làm việc trước đó mà có cùng ngày hiệu lực là ngày hiện tại, cán bộ giao dịch phòng KDNT sẽ lập bảng tỷ giá hạch toán. Nguyên tắc lập bảng tỷ giá này chính là tính giá mua (và giá bán) bình quân gia quyền của tất cả những hợp đồng mua (và hợp đồng bán) một đồng tiền đã tiến hành từ trước và có cùng ngày hiệu lực sau đó tính trung bình của hai mức giá này để làm cơ sở hạch toán.

b/ Xác định nhu cầu mua bán ngoại tệ của các chi nhánh trong hệ thống

Các chi nhánh khi phát sinh nhu cầu mua bán ngoại tệ sẽ chủ động liên hệ với các cán bộ phòng KDNT tại Sở giao dịch để đưa ra nhu cầu của mình.

Các cán bộ phòng KDNT sẽ tiếp nhận nhu cầu của chi nhánh qua điện thoại. Bước tiếp theo, các cán bộ phải kiểm tra hạn mức trạng thái bao gồm hạn mức trạng thái của phòng và hạn mức trạng thái của giao dịch viên. Từ đó, căn cứ vào các hạn mức trạng thái nói trên, cán bộ sẽ xác nhận giao dịch với chi nhánh. Nếu giao dịch đó vượt quá hạn mức của giao dịch viên thì cán bộ đó phải lập tờ trình trưởng phòng phê duyệt, nếu giao dịch vượt quá hạn mức của phòng KDNT thì phải lập tờ trình trưởng phòng ký xác nhận, trình Phó giám đốc phụ trách hoặc giám đốc trong trường hợp vượt quyền phán quyết của Phó giám đốc. Sau khi có ý kiến của lãnh đạo, cán bộ giao dịch điện thoại thông báo với chi nhánh để xác nhận giao dịch thống nhất với chi nhánh những thông tin sau: tỷ giá, ngày hiệu lực, ngày giao dịch và số lượng ngoại tệ.

Tiếp theo, cán bộ giao dịch sẽ lập xác nhận mua bán ngoại tệ (hoặc nhận xác nhận mua bán qua Fax do chi nhánh gửi lên), cán bộ phải có trách nhiệm kiểm tra

nội dung đã khớp đúng với nội dung đã xác nhận qua điện thoại với chi nhánh. Nếu có sai sót, cần thông báo cho chi nhánh chỉnh sửa.

Cán bộ sẽ thực hiện xử lý giao dịch trên màn hình quy định. Sau đó in chứng từ giao dich theo mẫu đã được tạo sẵn, rồi chuyển chứng từ giao dịch trình lãnh đạo phòng ký xác nhận, trình phó giám đốc phụ trách ký phê duyệt.

Sau khi được sự phê duyệt của Phó giám đốc phụ trách, cán bộ sẽ chuyển chứng từ cho lãnh đạo phòng phê duyệt trên hệ thống và chuyển chứng từ sang phòng kế toán thực hiện phê duyệt hạch toán cho chi nhánh.

c/ Quy trình thực hiện giao dịch KDNT với các tổ chức tín dụng

Những giao dịch này hầu hết được thực hiện tại Sở giao dịch do đây là đầu mối được phép thực hiện các giao dịch này. Các chi nhánh chỉ được phép thực hiện giao dịch mua với các TCTD trong nước còn đối với các ngân hàng nước ngoài các chi nhánh không được phép giao dịch. Giao dịch với các TCTD được thực hiện qua hệ thống REUTERS Dealing, đối với các đối tác không sử dụng mạng REUTERS thì lập Hợp đồng mua bán ngoại tệ qua Fax.

Cán bộ giao dịch thực hiện giao dịch mua bán ngoại tệ với các Ngân hàng để đáp ứng nhu cầu của chi nhánh, cân bằng trạng thái ngoại tệ và kinh doanh trong phạm vi hạn mức được giao. Trường hợp phát sinh nhu cầu giao dịch vượt hạn mức được giao phải báo cáo phụ trách phòng để xin ý kiến trước khi xác nhận giao dịch, nếu vượt quá hạn mức của phòng thì phụ trách phòng có trách nhiệm báo cáo xin ý kiến của lãnh đạo. Các giao dịch mua bán ngoại tệ khác phục vụ nhu cầu của các chi nhánh không tính vào hạn mức ngày của cán bộ giao dịch, nhưng phải cân bằng trong thái trong ngày. Nếu cuối ngày vẫn còn trạng thái mở thì sẽ tính vào hạn mức của cán bộ giao dịch.

Sau khi xác nhận giao dịch, cán bộ giao dịch phải in ra và ký vào bản xác nhận đó đồng thời lập phiếu giao dịch (deal slip) phản ánh đầy đủ các thông tin về giao dịch như đối tác, số lượng, tỷ giá, ngày hiệu lực, chỉ dẫn thanh toán.

Cán bộ giao dịch vào sổ, đánh số giao dịch và chuyển phụ trách phòng kiểm soát và ký trên phiếu giao dịch rồi trình Lãnh đạo phê duyệt. Trường hợp Phó trưởng phòng trực tiếp giao dịch thì Trưởng phòng ký kiểm soát, trường hợp Trưởng phòng trực tiếp giao dịch thì Trưởng phòng ký giao dịch viên và chuyển

cho lãnh đạo ký phê duyệt. Lãnh đạo Sở giao dịch không trực tiếp tham gia giao dịch.

Cán bộ giao dịch chuyển 1 bản phiếu giao dịch đã có chữ ký của lãnh đạo cho phòng kế toán thanh toán. Cán bộ kế toán kiểm tra đủ thủ tục thì tiến hành nhập đầy đủ dữ liệu vào chương trình IPCAS theo quy trình quy định. Cán bộ kế toán phải nắm bắt được hạn mức giao dịch của các cán bộ giao dịch, nếu phát hiện giao dịch vượt hạn mức thì không được thực hiện và báo cáo ngay Ban Lãnh đạo để xử lý.

Sau khi lãnh đạo phê duyệt giao dịch cán bộ kế toán tạo và gửi điện xác nhận qua SWIFT (đối với các đối tác không tham gia mạng SWIFT thì không lập điện xác nhận qua SWIFT).

Cán bộ kế toán nhận điện xác nhận của Ngân hàng đối tác do phòng SWIFT chuyển tới, kiểm soát đủ, đúng và đối chiếu khớp đúng với điện SWIFT gửi đi. Trường hợp không nhận được điện SWIFT đúng hạn hoặc có sai sót thì lập điện tra soát qua SWIFT.

Cán bộ kế toán lập và gửi điện thanh toán cho đối tác, theo dõi và xử lý các vướng mắc phát sinh và lưu trữ chứng từ theo quy định. Đối với các giao dịch kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn phải mở sổ theo dõi hạn thanh toán để đảm bảo thanh toán đúng thời hạn đã cam kết.

d/ Kiểm tra trạng thái ngoại tệ, số dư tài khoản và hạn mức giao dịch

Khi thực hiện mua hoặc bán ngoại tệ, giao dịch viên phòng KDNT phải căn cứ vào số dư trạng thái ngoại tệ để cân bằng mua hoặc bán. Bên cạnh đó, giao dịch viên còn phải nắm rõ số dư ngoại tệ trên tài khoản để quyết định giao dịch.

Trên màn hình kiểm soát trạng thái, giao dịch viên có thể dễ dàng kiểm soát được trạng thái đối với từng đồng tiền. Những thông tin hiển thị bao gồm, hạn mức đối với từng đồng tiền giao dịch, trạng thái đã giao dịch, số lượng còn được phép tiếp tục giao dịch, doanh số đã cam kết mua giao ngay, doanh số đã cam kết bán giao ngay, doanh số đã cam kết mua kỳ hạn, doanh số đã cam kết bán kỳ hạn). Hiện tại, những giao dịch giao ngay mà không cùng ngày hiệu lực với ngày thực hiện giao dịch (2 ngày làm việc sau đó-spot hoặc 1 ngày làm việc sau đó-tom) và những giao dịch mua bán ngoại tệ kỳ hạn đều được quản lý ngoại bảng vào những tài khoản thích hợp. Giao dịch kỳ hạn phải được theo dõi trên những tài khoản ngoại

bảng. Từ những tài khoản này sẽ tính toán được trạng thái ngoại tệ của một loại ngoại tệ nào đó. Những tài khoản nói trên cho phép Ban giám đốc Sở giao dịch, những cán bộ có trách nhiệm quản trị rủi ro và những giao dịch viên có thể dễ dàng nắm bắt được tình hình hoạt động KDNT.

Việc kiểm tra số dư tài khoản nhằm đảm bảo có đủ nguồn thanh toán khi thực hiện mua bán ngoại tệ. Đối với những giao dịch với các TCTD, các NHTM trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, giao dịch viên phải theo dõi và đảm bảo giao dịch trong hạn mức doanh số còn lại với đối tác đó.

Hạn mức trạng thái ngoại tệ được cấp dựa trên cơ sở hạn mức được NHNN quy định cho NHNo&PTNT VN. Sở giao dịch có trách nhiệm quản lý, duy trì hạn mức trạng thái ngoại tệ của hệ thống NHNo&PTNT VN tuân thủ theo đúng hạn mức trạng thái ngoại tệ do NHNN Việt nam quy định tại từng thời kỳ. e/ Đánh giá kết quả KDNT

Kết quả hoạt động KDNT của phòng KDNT, Sở giao dịch được phòng Kế hoạch và Quản lý rủi ro tại Sở giao dịch đánh giá hằng ngày. Cuối ngày làm việc, phòng Kế hoạch và Quản lý rủi ro sẽ kiểm soát trạng thái còn lại của phòng KDNT đảm bảo không vi phạm theo quy định của NHNN và của NHNo&PTNT VN.

Sau đó, phòng Kế hoạch và Quản lý rủi ro tiến hành đánh giá lại kết quả kinh doanh và đánh giá chênh lệch tỷ giá trạng thái nội bảng theo tỷ giá VND/USD bình quân liên ngân hàng và theo tỷ giá VND/USD thực tế trên thị trường liên ngân hàng. Đánh giá chênh lệch tỷ giá với số dư ngoại bảng, đảm bảo không vượt hạn mức lỗ được phép.

Sau khi đánh giá kết quả kinh doanh nội và ngoại bảng, phòng Kế hoạch và rủi ro dự báo kết quả KDNT theo tỷ giá thực tế và tỷ giá bình quân liên ngân hàng. Với kết quả dự báo đó, Ban Giám đốc Sở giao dịch có thể quản lý được hoạt động kinh doanh của phòng và đảm bảo không vượt hạn mức và lỗ nghiêm trọng.

Chỉ những giao dịch viên được cấp hạn mức mới được phép thực hiện mua bán ngoại tệ với chi nhánh và sau đó phải cân bằng trạng thái ngoại tệ lại trên thị trường liên ngân hàng. Giám đốc Sở giao dịch quy định trạng thái ngoại tệ và hạn mức ngắt lỗ cho giao dịch viên cho dù giao dịch viên đó chỉ giao dịch mua bán ngoại tệ phục vụ chi nhánh. Căn cứ theo hạn mức của mình, giao dịch viên được

phép giữ trạng thái chưa cân bằng khi mua (hoặc bán) ngoại tệ với chi nhánh. Tuy nhiên, nếu phần chênh giữa lượng mua (hoặc bán) ngoại tệ với chi nhánh và lượng bán (hoặc mua) lại để cân bằng trạng thái trên thị trường liên ngân hàng của giao dịch viên đó lớn hơn 1 triệu USD, phòng KDNT phải xin ý kiến của Ban giám đốc Sở quản lý và chỉ được phép thực hiện nếu có văn bản chấp thuận. f/ Phân tích thông tin thị trường

Đầu giờ sáng hằng ngày, phòng KDNT, Sở giao dịch thực hiện bản phân tích thị trường, cập nhật những thông tin về kinh tế thế giới và những chỉ số quan trọng, đáng giá sự biến động của tỷ giá các đồng ngoại tệ mạnh trong ngày. Việc phân tích các thông tin thị trường hỗ trợ cho việc KDNT đạt kết quả cao nhất.

Với những thông tin cập nhật được, phòng KDNT có thể dự đoán được xu hướng biến động tỷ giá trong ngày và xây dựng kế hoạch kinh doanh có hiệu quả

2.1.3. Thực trạng thực hiện hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHNo&PTNT VN

2.1.3.1. Về doanh số kinh doanh ngoại tệ

Hiện tại, NHNo&PTNT VN chủ yếu thực hiện hoạt động KDNT đối với ba loại tiền tệ chính là USD, EUR, JPY. Các loại ngoại tệ khác hiếm khi được thực hiện giao dịch. Lý do bởi vì lượng giao dịch mua bán các đồng ngoại tệ khác rất ít phát sinh trong thanh toán quốc tế mà chủ yếu từ những khách hàng cá nhân nhỏ lẻ mua ngoại tệ phục vụ cho những mục đích như đi du học nước ngoài, đi du lịch, công tác, chi trả tiền viên phí, nộp chi phí học tập v.v. Như vậy có thể thấy số lượng này chiếm một tỷ lệ không đáng kể, do vậy hiện tại NHNo&PTNT VN chưa thực hiện việc tổng hợp lượng giao dịch của các loại ngoại tệ này trong báo cáo của toàn hệ thống. Bên cạnh đó trong hoạt động kinh doanh, có những cặp đồng tiền rất hay được sử dụng như: EURUSD, USDJPY, GBPUSD. Ba cặp đồng tiền này được giao dịch rất nhiều trên thị trường quốc tế có tính lỏng cao nên giá chào ra rất chuyên nghiệp. Với những giao dịch chuẩn mực được quy định là 1 triệu USD quy đổi trở lên, chênh lệch giữa giá mua và giá bán mà các ngân hàng trên thị trường quốc tế chào ra chỉ lệch nhau từ 2 đến 3 điểm cơ bản. Trong khi đó, nếu giao dịch những cặp đồng tiền khác (VD: USDTHB, USDNOK, USDSEK…) thì chênh lệch giá lên tới hàng chục, thậm chí hàng trăm điểm cơ bản. Đó cũng là một lý do khác

quan trọng giải thích tại sao doanh số hoạt động tại NHNo&PTNT VN lại chủ yếu là USD, EUR và JPY (xem các bảng số liệu ở các trang tiếp theo).

Các số liệu từ Bảng 2.4 đến Bảng 2.7 (xem các bảng số liệu ở các trang tiếp theo) cho thấy, doanh số USD chiếm tỷ trọng vượt trội so với các loại ngoại tệ khác (trên dưới 85%). Điều này phản ánh một thực tế là hiện nay các doanh nghiệp kể cả doanh nghiệp xuất khẩu hay nhập khẩu đều chủ yếu sử dụng USD trong thanh toán quốc tế. Đồng USD vốn được coi là một loại tiền tệ mạnh và được sử dụng nhiều trên thị trường quốc tế. Tuy vậy, việc quá lạm dụng vào việc thanh toán bằng đồng USD sẽ tiềm ẩn bất lợi khi giá trị đồng USD không ổn định sẽ khiến các doanh nghiệp đối mặt với thua lỗ, tâm lý e ngại lan truyền sẽ khiến cho tình trạng mất cân đối USD càng trầm trọng và càng làm tỷ giá biến động mạnh hơn. Do đó, riêng với USD, để có thể chủ động trong việc cân đối nguồn tránh trường hợp mua bán chênh lệch nhau quá lớn, các chi nhánh NHNo&PTNT VN đã phải kế hoạch hoá trước ít nhất là 2 ngày đối với những giao dịch có số lượng từ 1 triệu USD trở lên, báo cho Sở giao dịch tổng hợp để lập phương án cân đối. Đối với các đồng ngoại tệ khác, chi nhánh không phải báo trước bởi vì giao dịch viên phòng KDNT có thể giao dịch trên thị trường liên ngân hàng với số lượng giao dịch rất lớn.

Bảng 2.4: Doanh số mua ngoại tệ của NHNo&PTNT VN qua các năm

                      (Đơn vị: nguyên tệ)
      2007   2008   2009   2010   6 tháng đầu năm  
              2011    
                         
                           
  USD 1.767.338.236,73   5.088.104.804.44   5.353.950.491,06   4.804.421.031,12   2.432.190.969,65  
                           
  EUR 113.104.067,97   291.941.225,19   386.517.885,96   459.326.348,36   324.337.255,88  
                           
  JPY 24.299.115.171,00   10.166.501.061,00   9.455.777.042,00   7.129.226.964,00   3.058.571.009,00  
                           
              (Nguồn: Báo cáo của Ban Quan hệ quốc tế)
                      41
      Bảng 2.5: Doanh số bán ngoại tệ của NHNo&PTNT VN qua các năm      
                      (Đơn vị: USD)
                         
      2007   2008   2009   2010   6 tháng đầu năm  
              2011    
                         
                           
  USD   1.771.037.251,37   5.129.910.254,14   5.325.170.167,67   4.780.529.029,83   2.411.055.690,19    
                           
  EUR   113.903.688,29   288.940.786,53   382.365.754,19   452.168.082,08   325.448.014,51    
                           
  JPY   24.305.257.102,00   10,155.160.564,00   9.464.347.316,00   7.074.188.995,00   3.074.766.100,00    
                       
                  (Nguồn: Báo cáo của Ban Quan hệ quốc tế)

 

Bảng 2.6 Tổng doanh số mua ngoại tệ quy về USD và tỷ trọng mua từng loại ngoại tệ/Tổng doanh số mua

Loại 2007   2008   2009   2010   6 tháng đầu năm 2011  
                       
  Tổng số Tỷ Tổng số Tỷ Tổng số Tỷ Tổng số Tỷ Tổng số Tỷ  
  (USD) trọng (USD) trọng (USD) trọng (USD) trọng (USD) trọng  
             
    (%)   (%)   (%)   (%)   (%) 42
                 
                   
                       
USD 2.147.294.781.44 84,97 5.608.034.698,37 91,52 6.009.356.565,74 90,17 5.502.202.693,09 88,75 2.938.112.980.00 85,31  
                       
EUR 165.463.419,53 6,55 408.650.909,49 6,67 553.495.118,69 8,30 610.308.170,98 9,84 468.053.676,95 13,59  
                       
JPY 214.493.125,18 8,48 111.278.984,44 1,81 101.910.955,99 1,53 87.473.490,99 1,41 37.867.951,38 1.1  
                       
Tổng 2.527.251.326,15 100 6.127.964.592,30 100 6.664.762.640,42 100 6.199.984.355,06 100 3,444,034,608.33 100  
                       

(Nguồn: Tổng hợp từ hệ thống hạch toán toàn hệ thống)

 

Bảng 2.7 Tổng doanh số bán ngoại tệ quy về USD và tỷ trọng bán từng loại ngoại tệ/Tổng doanh số bán

Loại 2007   2008   2009   2010   6 tháng đầu năm 2011    
                         
  Tổng số Tỷ Tổng số Tỷ Tổng số Tỷ Tổng số Tỷ Tổng số Tỷ    
  (USD) trọng (USD) trọng (USD) trọng (USD) trọng (USD) trọng    
               
    (%)   (%)   (%)   (%)   (%)    
                     
                      43  
USD 2.158.170.106,34 84,79 5.655.527.662,84 91,5 5.988.119.178,63 90,03 5.468.124.184,40 88,83 2.918.780.773,42 85,18
   
                         
EUR 168.855.574,10 6,63 412.005.097,50 6,67 558.772.879,74 8,40 600.796.963,06 9,76 469.656.621,58 13,71    
                         
JPY 218.277.280,87 8,58 113.612.311,21 1,83 104.226.131,22 1,57 86.798.191,51 1,41 38.068.461,65 1,11    
                         
Tổng 2.545.302.961,31 100 6.181.145.071,55 100 6.651.118.189,59 100 6.155.719.338,97 100 3.426.505.856,65 100    
                         

(Nguồn: Tổng hợp từ hệ thống hạch toán toàn hệ thống)

 

2.1.3.2. Nguồn mua và bán ngoại tệ

  1. Nguồn mua ngoại tệ

NHNo thực hiện việc mua ngoại tệ từ các nguồn sau:

  • Mua từ khách hàng: Các chi nhánh NHNo&PTNT VN có thể khai thác được từ nhiều nguồn khác nhau như:

. Nguồn thu xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ

. Tiền mặt của cư dân là người cư trú và người không cư trú, kiều hối…

. Ngoại tệ thu được từ các ngân hàng ngoài hệ thống

Sau đó, các chi nhánh sẽ thực hiện tự cân đối việc kinh doanh ngoại tệ của mình trong hạn mức được đề ra.

  • Mua từ chi nhánh trong hệ thống: NHNo&PTNT VN thông qua đầu mối là Sở giao dịch sẽ mua ngoại tệ từ các chi nhánh có nguồn cung ngoại tệ dồi dào hoặc

các chi nhánh bán có mục đích điều hoà vốn trong nội bộ hệ thống.

  • Mua trên thị trường liên ngân hàng: NHNo&PTNT VN chủ yếu thực hiện mua ngoại tệ từ các TCTD trên thị trường liên ngân hàng thông qua Sở giao dịch nhằm giải quyết thanh khoản của toàn hệ thống khi trạng thái ngoại tệ của cả hệ thống âm hoặc để đáp ứng kịp thời nhu cầu ngoại tệ cho các khách hàng của chi

nhánh.

  1. Nguồn bán ngoại tệ

NHNo&PTNT VN  thực hiện việc bán ngoại tệ cho các nguồn sau:

  • Bán cho khách hàng: Thông thường các chi nhánh sẽ thực hiện việc bán ngoại tệ cho khách hàng nhằm mục đích thanh toán các hợp đồng ngoại thương hoặc bán cho những khách hàng có nhu cầu mua ngoại tệ đáp ứng đủ các tiêu chí mà ngân hàng đề ra.
  • Bán cho chi nhánh trong hệ thống: Thường thì giao dịch bán ngoại tệ từ nguồn này nhằm mục đích đáp ứng cho các nhu cầu của các khách hàng của chi

nhánh. Giao dịch này sẽ được thực hiện thông qua Sở giao dịch. Lượng ngoại tệ Sở giao dịch bán cho chi nhánh được thực hiện theo tỷ giá nội bộ.

  • Bán trên thị trường liên ngân hàng: NHNo&PTNT VN chủ yếu thực hiện việc bán ngoại tệ cho các TCTD trên thị trường liên ngân hàng thông qua Sở giao dịch nhằm mục đích cân bằng trạng thái hoặc hưởng chênh lệch kiếm lời.

Hiện nay, tại các chi nhánh chủ yếu thực hiện các nghiệp vụ mua bán ngoại tệ giao ngay đối với khách hàng, nghiệp vụ mua bán ngoại tệ kỳ hạn hoặc hoán đổi chủ yếu được thực hiện với Sở giao dịch. Tại Sở giao dịch, trung tâm đầu mối đại diện cho NHNo&PTNT VN thực hiện KDNT, hiện chủ yếu thực hiện các nghiệp vụ mua bán ngoại tệ giao ngay, mua bán ngoại tệ kỳ hạn, giao dịch hoán đổi với các chi nhánh NHNo&PTNT VN cũng như với các TCTD, các NHTM khác trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Bên cạnh đó, Sở giao dịch còn từng bước nghiên cứu một số nghiệp vụ phức tạp hơn như: Hợp đồng quyền chọn, Hợp đồng tương lai cũng như nghiên cứu triển khai và thực hiện thí điểm những giao dịch sản phẩm cơ cấu đầu tiên của hệ thống NHNo&PTNT VN .

2.1.3.3. Các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ

  1. Nghiệp vụ KDNT giao ngay

Hiện nay, NHNo&PTNT VN chưa có hệ thống để tổng hợp hoạt động KDNT của toàn hệ thống theo từng nghiệp vụ. Tuy vậy, tại Sở giao dịch- trung tâm đầu mối thực hiện hoạt động KDNT của toàn hệ thống đã có thể tổng hợp được lượng giao dịch theo những nghiệp vụ này. Do Sở giao dịch là đầu mối, cũng như là nơi thực hiện hầu hết các giao dịch với tỷ trọng doanh số giao dịch KDNT so với toàn hệ thống ở mức cao nên có thể coi một cách tương đối rằng số liệu KDNT theo từng nghiệp vụ tại Sở giao dịch chính là số liệu của toàn hệ thống. Một lý do nữa để giải thích cho số liệu này đó là đối với các chi nhánh, hoạt động tự doanh của chi nhánh với khách hàng hầu như chỉ tập trung vào nghiệp vụ KDNT giao ngay nhằm phục vụ nhu cầu của khách hàng. Theo báo cáo tại Sở giao dịch thì nghiệp vụ KDNT giao ngay chiếm tỷ trọng gần như tuyệt đối trong doanh số giao dịch. Lý do xuất phát từ thói quen giao dịch của khách hàng. Khách hàng vẫn chưa thấy được sự cần thiết phải giao dịch kỳ hạn để phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Chủ yếu khách hàng thực hiện giao dịch giao ngay với mục đích thanh toán các hợp đồng xuất nhập khẩu.

  1. Nghiệp vụ KDNT theo hợp đồng kỳ hạn

Thực tiễn tại Việt Nam cho thấy các giao dịch kỳ hạn hầu như mới phát triển vào giữa năm 1998 trở lại đây, tức là sau khi có Quyết định số 16 và 17/1998-NHNN7 ngày 10/01/1998 của Thống đốc NHNN quy định về việc ấn định tỷ giá

mua bán ngoại tệ kỳ hạn, hoán đổi của các TCTD được phép hoạt động giao dịch ngoại hối kỳ hạn, hoán đổi.

Mục đích chính của giao dịch kỳ hạn là nhằm bảo hiểm rủi ro ngoại hối khi tỷ giá thay đổi vì trong hoạt động xuất nhập khẩu, rủi ro về tỷ giá là không thể tránh khỏi nếu như một trong hai bên mua bán thanh toán bằng ngoại tệ.

Về phương diện lý thuyết cũng như thực tế, tỷ giá giao dịch được xác định trên cơ sở tỷ giá giao ngay và chênh lệch lãi suất của hai đồng tiền. Ở Việt Nam, tỷ giá kỳ hạn USDVND được xác định dựa theo tỷ giá chính thức do NHNN công bố và chênh lệch lãi suất giữa USD do Cục dữ trữ liên bang Mỹ công bố và lãi suất cơ bản VND do NHNN công bố. Quy định về cách tính giá kỳ hạn USDVND theo lãi suất cơ bản thật ra chỉ có tác dụng tạo ra khung trần và sàn cho tỷ giá kỳ hạn, còn về tỷ giá thực tế được giao dịch giữa ngân hàng với khách hàng hoặc giữa các ngân hàng với nhau thì căn cứ vào lãi suất thực tế mà 2 bên sẵn sàng đi vay và cho vay. Tuy nhiên, NHNN lại không có quy định gì ràng buộc đối với việc giao dịch các đồng ngoại tệ khác USD.

c/ Nghiệp vụ kinh doanh hoán đổi ngoại tệ

Tại Việt Nam, từ khi có Quyết định số 203/QĐ/NHNN13 ngày 20/09/1994 của Thống đốc NHNN ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng; Quyết định số 430/1997/ QĐ/NHNN13 ngày 24/12/1997 của Thống đốc NHNN về việc thực hiện giao dịch hoán đổi giữa NHNN với các NHTM; Quyết định số 17/1998/QĐ/NHNN7 của Thống đốc NHNN ngày 10/01/1998 kèm theo quy chế giao dịch ngoại hối thì nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ đã thực sự có ý nghĩa trên thị trường ngoại hối.

  • Trình tự thực hiện nghiệp vụ hoán đổi giữa Sở giao dịch và các chi nhánh trong hệ thống diễn ra như sau:
  • Khi các chi nhánh NHNo&PTNT VN có nhu cầu cho vay khách hàng một loại ngoại tệ mà chi nhánh không thể huy động đủ hoặc không có nguồn huy động (ví dụ như JPY, AUD v.v), trong khi đó chi nhánh lại có nguồn huy động một loại ngoại tệ khác thì chi nhánh có thể yêu cầu được thực hiện nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ (SWAP). Tuy nhiên, trước khi thực hiện SWAP với Sở giao dịch, chi nhánh phải có tờ trình Tổng Giám Đốc xin phép được thực hiện. Căn cứ theo phê duyệt của

Tổng Giám đốc, phòng KDNT Sở giao dịch sẽ chào điểm SWAP và thoả thuận những điều khoản trong hợp đồng với chi nhánh rồi thực hiện cân bằng trên thị trường liên ngân hàng. Trong trường hợp cần thiết phải giao dịch với NHNN (khi thiếu VND chẳng hạn), NHNo&PTNT VN gửi đề nghị bằng văn bản đến NHNN (Vụ chính sách tiền tệ) trong đó ghi rõ số liệu chứng minh tình hình thiếu vốn khả dụng bằng đồng VN để NHNN xem xét, quyết định.

  • Khi được NHNN chấp thuận, NHNo&PTNT VN thực hiện hoán đổi ngoại tệ với NHNN theo mẫu hợp đồng hoặc thực hiện qua hệ thống giao dịch trên mạng
  • Việc chuyển USD để bán cho NHNN phải được thực hiện và kết thúc chậm nhất trong vòng hai ngày làm việc tiếp theo sau ngày ký hợp đồng hoán đổi ngoại tệ (hoặc ngày xác nhận giao dịch hoán đổi ngoại tệ qua mạng Reuters). Ngay sau khi nhận được báo có ngoại tệ, NHNN chuyển tiền VND cho NHNo&PTNT VN thực hiện hoán đổi ngoại tệ.
  • Việc chuyển VND để mua lại USD từ NHNN phải được thực hiện và kết thúc chậm nhất trong vòng hai ngày làm việc tiếp theo sau ngày kết thúc hợp đồng giao dịch hoán đổi ngoại tệ (hoặc ngày kết thúc kỳ hạn giao dịch hoán đổi ngoại tệ đã xác định trên mạng Reuters). Ngay sau khi nhận được báo có VND, NHNN chuyển USD cho ngân hàng thực hiện hoán đổi ngoại tệ.

Việc ban hành quy chế về giao dịch hoán đổi ngoại tệ thực sự là cần thiết và có ý nghĩa. Xuất phát từ nhu cầu giao dịch hoán đổi của ngân hàng nhằm đáp ứng kịp thời cho khách hàng cũng như cân đối ngoại tệ cho chính bản thân ngân hàng. Tuy nhiên, giao dịch hoán đổi trong thời gian qua tuy có tăng nhưng còn rất hạn chế và chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng doanh số hoạt động tại NHNo

d/ Nghiệp vụ KDNT theo hợp đồng tương lai

Đến nay, nghiệp vụ này vẫn chưa được thực hiện ở Việt Nam. Các NHTM và TCTD chưa nhận được những văn bản pháp luật hướng dẫn về nghiệp vụ này. Do đó, trong tương lai gần, nghiệp vụ này sẽ chưa được thực hiện tại Sở quản lý.

e/ Nghiệp vụ KDNT theo quyền chọn

 

Theo quy định 1452/2004/QĐ-NHNN, nếu một TCTD muốn thực hiện giao dịch quyền chọn của một đồng ngoại tệ với VND thì phải xin phép NHNN. Trường hợp giao dịch quyền chọn các loại ngoại tệ khác thì TCTD được chủ động giao dịch. Thủ tục xin phép thực hiện giao dịch quyền chọn yêu cầu TCTD phải có quy trình giao dịch cụ thể, chặt chẽ, phải có biện pháp kiểm soát rủi ro phát sinh. Điều này đòi hỏi TCTD trước hết phải có một hệ thống chương trình quản trị rủi ro hỗ trợ vì những công thức toán học liên quan đến tính giá quyền chọn rất phức tạp, phương pháp cân bằng trạng thái quyền chọn cũng không phải dễ thực hiện nếu chỉ tính toán bằng những biện pháp thủ công. Hiện tại, NHNo&PTNT VN mà đại diện là Sở giao dịch đang phối hợp với những chuyên gia nước ngoài để hoàn thiện hệ thống quản trị rủi ro và tính giá quyền chọn nhằm sớm đưa vào triển khai thí điểm những giao dịch quyền chọn đầu tiên. Sở giao dịch cũng đang tìm kiếm những khóa học quốc tế nhằm đưa các cán bộ của phòng KDNT đi tập huấn và học hỏi kinh nghiệm.

2.2. Đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHNo&PTNTVN

2.2.1. Doanh số thực hiện

Bảng 2.8: Doanh số thực hiện hoạt động KDNT tại NHNo&PTNT VN qua các năm

          (Đơn vị: Triệu USD)
               
  2007 2008 2009 2010   6 tháng đầu  
            năm 2011  
               
Doanh 2.527,25 6.127,97 6.664,76 6.199,98   3,444,04  
số mua              
               
Doanh 2.545,30 6.181,15 6.651,12 6.155,72   3.426,51  
số bán              
               

(Nguồn: Tổng hợp số liệu KDNT của toàn hệ thống từ hệ thống hạch toán)

 

Biểu đồ 2.1: Doanh số mua và bán ngoại tệ tại NHNo&PTNT VN qua các năm

Nhìn trên Bảng 2.8 và Biểu đồ 2.1 ta có thể thấy doanh số thực hiện giao dịch KDNT tại NHNo&PTNT VN đã có sự tăng trưởng qua các năm (đặc biệt năm 2008 đã có sự tăng trưởng hơn nhiều so với năm 2007). Sau đó từ năm 2008, doanh số giao dịch ổn định và đều có xu hướng tăng qua các năm (trong năm 2010 có xu hướng giảm tuy nhiên không đáng kể). Điều này một phần được lý giải do trong năm 2010 thị trường ngoại tệ trở nên căng thẳng vào cuối năm, tỷ giá USD/VND trên thị trường liên ngân hàng và thị trường tự do tăng vọt, nguồn cung USD trở nên khan hiếm. Bên cạnh đó lượng USD được NHNN bán hỗ trợ giảm hơn rất nhiều (giảm 74% so với năm 2009). Tuy vậy có thể thấy NHNo&PTNT VN đã tích cực tìm các biện pháp thu hút USD để phục vụ cho nhu cầu của khách hàng và của toàn hệ thống và cũng đã đáp ứng khá tốt nhu cầu của khách hàng cũng như của toàn hệ thống. Thêm vào đó, Tổng giám đốc và Hội đồng quản trị của NHNo&PTNT VN cũng đã đồng ý cho Sở giao dịch áp dụng cơ chế chi hỗ trợ nội bộ cũng như tính phí nội bộ hai chiều giúp cho việc điều hoà tốt hơn nguồn ngoại tệ phục vụ hệ thống.

Tiếp theo khi nhìn Bảng số liệu 2.9 đến Bảng số liệu 2.12(xem các bảng số liệu ở các trang tiếp theo) ta có thể thấy doanh số thực hiện hoạt động KDNT của Sở giao dịch chiếm tỷ trọng đáng kể so với doanh số giao dịch của toàn hệ thống (tỷ lệ trung bình chiếm trên dưới 80%). Đặc biệt đối với với các giao dịch kinh doanh EUR và JPY doanh số giao dịch của Sở giao dịch gần như chiếm tỷ lệ tuyệt đối (trong những năm 2008-2009). Điều này được lý giải bởi Sở giao dịch là trung tâm đầu mối được giao thực hiện toàn bộ các chức năng KDNT của toàn hệ thống và có

nhiệm vụ điều tiết ngoại tệ của toàn hệ thống. Do vậy có thể thấy, hoạt động tự doanh của các chi nhánh NHNo&PTNT VN hiện nay vẫn chưa nhiều và chủ yếu thực hiện mua bán thông qua Sở giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng.

Tuy vậy qua biểu đồ 2.2 và biểu đồ 2.3 (các trang tiếp theo), ta thấy rằng tỷ trọng doanh số mua và bán đồng EUR và JPY của Sở giao dịch trong tổng doanh số mua và bán của toàn hệ thống chủ yếu vẫn giữ ở mức ổn định, không có quá nhiều thay đổi (trung bình vẫn chiếm trên 80%). Riêng trong năm 2010, tỷ trọng doanh số mua và bán ngoại tệ của tất cả các loại tiền có xu hướng giảm. Vì như đã phân tích ở trên, năm 2010 do gặp nhiều khó khăn và nguồn bán ngoại tệ từ NHNN cho NHNo&PTNT VN giảm mạnh, do đó nên các chi nhánh trong thời gian đó sẽ phải tự chủ động nhiều hơn trong hoạt động tự doanh của mình. Bên cạnh đó đối với giao dịch kinh doanh USD tỷ trọng của Sở giao dịch so với toàn hệ thống có xu hướng giảm nhẹ trong các năm qua. Điều này cũng không phải là một tín hiệu xấu, điều này cho thấy hoạt động tự doanh của các chi nhánh đã có hiệu quả hơn, các chi nhánh NHNo&PTNT VN đã chủ động hơn trong việc thu hút nguồn USD từ khách hàng và từ đó tự cân đối nguồn cho hoạt động KDNT của chính mình.

  Bảng 2.9: Doanh số mua ngoại tệ của Sở giao dịch so với doanh số mua ngoại tệ của toàn hệ thống  
                      (Đơn vị: Triệu nguyên tệ)  
                             
    2008     2009   2010 6 tháng đầu năm 2011    
                             
  Sở giao   Toàn hệ   Sở giao   Toàn hệ Sở giao   Toàn hệ Sở giao Toàn hệ    
  dịch   thống   dịch   thống dịch   thống dịch thống    
                             
USD 4.258,44   5.088,11   4.090,20   5.353,95 3.076,53   4.804,42 1.468,48 2.432,19    
                            51
EUR 249,39   291,94   356,55   386,52 425,42   459.33 299,57 324,34  
           
                             
JPY 9.746,35   10.166,50   8.465,71   9.455,78 6.665,25   7.129,23 1.930,51 3.058.57    
                         
        (Nguồn: Tổng hợp số liệu KDNT của Sở giao dịch và toàn hệ thống lấy từ hệ thống hạch toán)  
      Bảng 2.10: Tỷ trọng doanh số mua của Sở giao dịch so với toàn hệ thống      
                        (Đơn vị: %)  
                           
    2008     2009   2010 6 tháng đầu năm 2011    
                             
  Sở giao   Toàn hệ   Sở giao   Toàn hệ Sở giao   Toàn hệ Sở giao Toàn hệ    
  dịch   thống   dịch   thống dịch   thống dịch thống    
                             
USD 83,69 100 76,40 100 64,04 100 60,38 100
                 
EUR 85,43 100 92,25 100 90,86 100 92,36 100
                 
JPY 95,87 100 89,53 100 93,49 100 63,12 100
                 

(Nguồn: Tổng hợp số liệu KDNT của Sở giao dịch và toàn hệ thống lấy từ hệ thống hạch toán)

Bảng 2.11: Doanh số bán ngoại tệ của Sở giao dịch so với doanh số bán ngoại tệ của toàn hệ thống

(Đơn vị: Triệu nguyên tệ)

  2008     2009   2010 6 tháng đầu năm 2011 52
                       
  Sở giao   Toàn hệ Sở giao   Toàn hệ Sở giao   Toàn hệ Sở giao Toàn hệ thống  
  dịch   thống dịch   thống dịch   thống dịch    
                         
USD 4.298,32   5.129,91 4.405,98   5.325,17 2.748,69   4.780,53 1.460,58 2.411,06  
                         
EUR 248,26   288,94 354,55   382,37 275,11   452,17 299,25 325,45  
                         
JPY 9.742,61   10.155,16 8.492,42   9.464,35 6.185,08   7.074,19 1.928,85 3.074,77  
                         

(Nguồn: Tổng hợp số liệu KDNT của Sở giao dịch và toàn hệ thống lấy từ hệ thống hạch toán)

 

Bảng 2.12: Tỷ trọng doanh số bán ngoại tệ của Sở giao dịch so với doanh số bán ngoại tệ của toàn hệ thống

                        (Đơn vị: %)  
                             
    2008     2009   2010 6 tháng đầu năm 2011    
                             
  Sở giao   Toàn hệ   Sở giao   Toàn hệ Sở giao   Toàn hệ Sở giao Toàn hệ    
  dịch   thống   dịch   thống dịch   thống dịch thống    
                            53
USD 83,79   100   82,74   100 57,50   100 60,58 100  
           
                             
EUR 85,92   100   92,72   100 60,84   100 91,95 100    
                             
JPY 95,94   100   89,73   100 87,43   100 62,73 100    
                         
        (Nguồn: Tổng hợp số liệu KDNT của Sở giao dịch và toàn hệ thống lấy từ hệ thống hạch toán)  

Biểu đồ 2.2: Tỷ trọng doanh số mua từng loại ngoại tệ của Sở giao dịch so với tổng doanh số mua từng loại ngoại tệ của NHNo&PTNT VN qua các năm

Biểu đồ 2.3: Tỷ trọng doanh số bán từng loại ngoại tệ của Sở giao dịch so với tổng doanh số bán từng loại ngoại tệ của NHNo&PTNT VN qua các năm

2.2.2. Lợi nhuận

Thu nhập từ hoạt động KDNT là chênh lệch giữa tỷ giá bán ra và tỷ giá mua vào. Chênh lệch này càng lớn thì càng có lợi cho ngân hàng và ngược lại. Phương châm tìm kiếm lợi nhuận của NHNo&PTNT VN là thông qua phân tích, theo dõi tình hình biến động kinh tế, chính trị, xã hội trong và ngoài nước để đưa ra quyết định kinh doanh đúng đắn.

Tuy có nhiều thời gian gặp khó khăn trong cung ứng ngoại tệ đáp ứng nhu cầu của các chi nhánh trên toàn hệ thống nhằm kịp thời phục vụ theo yêu cầu của khách

hàng hoặc có thời điểm tỷ giá biến động bất thường, song nhìn chung hoạt động KDNT của NHNo&PTNT VN hiện nay vẫn được đảm bảo an toàn và kinh doanh có lãi. Tại các chi nhánh ngoài một phần tự doanh chiếm không đáng kể, việc mua bán ngoại tệ với khách hàng thường được thực hiện theo tỷ giá căn cứ trên tỷ giá mua bán ngoại tệ với Sở giao dịch, do vậy rủi ro về lỗ không cao. Còn tại Sở giao dịch, hiện tại việc KDNT vẫn được đảm bảo an toàn và kinh doanh có do Sở giao dịch đã thực hiện nghiêm túc nguyên tắc hàng đầu là mua bán ngoại tệ phải tiến hành đồng thời để cân đối được trạng thái ngoại hối đề phòng các biến động của tỷ giá.

Bên cạnh đó, trong năm 2010, khi NHNN hai lần đã tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng, Sở giao dịch đã tận dụng rất tốt những thời điểm biến động tỷ giá có lợi để cân bằng trạng thái ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng mang lại lợi nhuận cao cho NHNo&PTNT VN. Kết quả kinh doanh năm 2010 lãi: 244,47 tỷ đồng7. Trong 6 tháng đầu năm 2011, Sở giao dịch cũng đã lựa chọn tời cơ phù hợp biến động thị trường, thu đựoc lợi nhuận từ kinh doanh chênh lệch tỷ giá. Trong 6 tháng đầu năm 2011, Sở giao dịch đã đem về lợi nhuận là lãi 248,53 tỷ đồng cho NHNo&PTNT VN 8.

2.2.3. Sự hài lòng của khách hàng

Có thể thấy rằng nhu cầu về ngoại tệ từ các khách hàng của chi nhánh luôn được đáp ứng một cách kịp thời thể hiện qua việc doanh số mua bán ngoại tệ của toàn hệ thống luôn được duy trì tốt và có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây.

Ngay cả tại một số thời điểm xảy ra tình trạng căng thẳng về ngoại tệ, NHNo

đều đã có các phương án đối phó, giải quyết một cách linh hoạt và hiệu quả, góp phần nâng cao thêm uy tín của toàn hệ thống với mục tiêu đáp ứng “đủ, an toàn, chính xác, kịp thời”. Ban lãnh đạo NHNo&PTNT VN đã có những theo dõi sát sao tình hình diễn biến của thị trường và sau đó, thông qua trung tâm đầu mối là Sở giao dịch đã đưa ra những chính sách áp dụng một cách linh hoạt và khéo léo nhằm đáp ứng đủ nhu cầu của khách hàng. NHNo&PTNT VN đã áp dụng linh hoạt một số

  • Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh năm 2010 của Sở giao dịch.

 

  • Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh 6 tháng đầu năm 2011 của Sở giao dịch.

 

biện pháp như: áp dụng tỷ giá cạnh tranh theo sát diễn biến của thị trường, hay như tại những thời điểm thị trường khan hiếm ngoại tệ, tỷ giá biến động tăng, NHNo&PTNT VN đã cho phép Sở giao dịch mua USD từ NHNN, khai thác từ thị trường liên ngân hàng nhằm cân đối nguồn cung cầu ngoại tệ trong hệ thống và bắt buộc phải thực hiện áp dụng phí mua bán ngoại tệ trong thời điểm này để thu hút nguồn ngoại tệ từ khách hàng xuất khẩu nhằm cân đối ngoại tệ cho khách hàng nhập khẩu.

2.2.4. Quy mô thực hiện hoạt động kinh doanh ngoại tệ

Từ những năm đầu thực hiện hoạt động KDNT với việc thực hiện với hơn 20 đối tác trên thị trường liên ngân hàng thì đến những năm gần đây, số lượng đối tác trên thị trường liên ngân hàng trong và ngoài nước mà NHNo&PTNT VN đã thực hiện giao dịch đã lên đến con số hơn 40 ngân hàng. Điều này cho thấy hoạt động KDNT tại NHNo&PTNT VN đã được thực hiện một cách khá hiệu quả, bên cạnh đó việc thực hiện với nhiều đối tác cũng tạo cơ hội cho NHNo&PTNT VN có được một tỷ giá có lợi nhất cho mình. Số lượng chi nhánh trong toàn hệ thống được phép thực hiện giao dịch KDNT cũng đã tăng dần trong những năm qua. Bên cạnh đó, có thể thấy tại phòng KDNT tại Sở giao dịch, nếu như trước đây số nhân viên thực hiện hoạt động này chỉ là dưới 10 người thì quy mô phòng hiện đã được mở rộng với gần 20 nhân viên, đội ngũ nhân viên này đều là những người đã tốt nghiệp đại học chuyên ngành kinh tế, tài chính với độ tuổi trẻ, với những ước mơ hoài bão lớn, đồng thời khả năng tiếp xúc với công nghệ cũng như những thông tin mới khá nhanh nhạy và sắc bén.

Hiện nay, nhận thức được vai trò đầu tàu của mình trong hoạt động KDNT của toàn hệ thống, các cán bộ thực hiện hoạt động KDNT tại Sở giao dịch đặc biệt là ban lãnh đạo cũng đã chủ động tích cực trong việc triển khai những công nghệ mới, đồng thời học hỏi và đề xuất tham gia những khoá học về các giao dịch quyền chọn để sẵn sàng tham gia sau khi được sự cho phép của NHNN. Bên cạnh đó, ban lãnh đạo của NHNo&PTNT VN cũng đã thể hiện sự ủng hộ, nhất trí và khuyến khích các cán bộ học hỏi thêm kinh nghiệm từ các ngân hàng nước ngoài. Như vậy, trong tương lai quy mô hoạt động KDNT của hệ thống NHNo&PTNT VN sẽ không chỉ tăng trưởng về số lượng mà chất lượng chắc chắn cũng sẽ tăng trưởng mạnh.

2.2.5. Mở rộng mạng lưới khách hàng và đối tác

  • Việt Nam hiện nay, ngoài các ngân hàng, còn có các công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm tham gia hoạt động trong lĩnh vực tài chính

– ngân hàng. Các tổ chức tài chính – tín dụng này đang cạnh tranh gay gắt với nhau.

Tuy nhiên, NHNo&PTNT VN luôn khẳng định là một trong bốn ngân hàng thương mại quốc doanh lớn, chủ đạo ở Việt Nam với vị thế và uy tín ngày càng lớn trong lòng các khách hàng và các ngân hàng trong và ngoài nước. Tính đến thời điểm hiện tại, năm 2011, NHNo&PTNT VN đang duy trì quan hệ đại lý với hơn 1000 ngân hàng tại 97 quốc gia và vùng lãnh thổ9. Với việc phát triển một mạng lưới ngân hàng đại lý rộng khắp như vậy, NHNo&PTNT VN có thể khai thác tốt nguồn ngoại tệ cho các doanh nghiệp, góp phần tăng thêm thu nhập cho NHNo&PTNT VN.

Bên cạnh đó, với mạng lưới đối tác rộng lớn như hiện nay, NHNo&PTNT VN đã dần dần tận dụng được những cơ hội hợp tác với các ngân hàng nước ngoài như việc tiếp cận các đối tác đề nghị họ cung ứng dịch vụ ngoại hối hoặc tận dụng những kinh nghiệm của họ trong lĩnh vực đào tạo nghiệp vụ. Có thể nói, NHNo&PTNT VN cũng đã nhận được rất nhiều trợ giúp có hiệu quả từ các ngân hàng đối tác. Một trong những trợ giúp đó là việc hàng năm, các ngân hàng đối tác đều có mời các cán bộ trong hệ thống NHNo&PTNT VN tham dự các khóa học, khóa đào tạo trong và ngoài nước nhằm nâng cao trình độ và kỹ năng xử lý nghiệp vụ của mỗi cán bộ nói chung và cán bộ KDNT nói riêng. Không những thế các đối tác còn rất sẵn lòng chia sẻ những kinh nghiệm quý báu của họ trong việc thực hiện hoạt động KDNT cũng như các hoạt động khác, bên cạnh đó cũng chào mời sử dụng các phần mềm hiện đại tiên tiến phục vụ cho các giao dịch KDNT. Cũng nhờ mạng lưới đối tác này mà NHNo&PTNT VN cũng đã được phép sử dụng các hạn mức tài trợ thương mại, hạn mức thấu trên tài khoản Nostro, hạn mức xác nhận L/C… tạo thêm các dịch vụ mới nhằm đáp ứng thêm các nhu cầu của khách hàng.

9 Nguồn: Theo danh sách các ngân hàng đại lý năm 2011 do phòng Ngân hàng đại lý Sở giao dịch cung cấp.

CHƢƠNG 3 : GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGOẠI TỆ CỦA NHNO&PTNT VN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU TRONG GIAI ĐOẠN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

3.1. Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế và những khó khăn, thách thức đối với NHNo&PTNT VN trong hoạt động KDNT

Năm 2006, Việt Nam đã gia nhập nhập WTO. Từ ngày 1111/01/2007, Việt Nam phải thực hiện cam kết trong WTO về mở cửa thị trường ngân hàng. Điều này có nghĩa là NHNo&PTNT VN sẽ phải đối mặt với hàng loạt khó khăn, thách thức trong hoạt động ngân hàng nói chung và trong hoạt động KDNT nói riêng. Để có giải pháp tháo gỡ khó khăn và vượt qua thách thức, phần dưới đây phân tích các khó khăn và thách thức của NHNo&PTNT VN phải đối mặt.

3.1.1. Những khó khăn

3.1.1.1. Chính sách thắt chặt quản lý ngoại tệ của Nhà nước

Trong tháng 04/2011 vừa qua, thủ tướng Chính phủ vừa chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước chuẩn bị một loạt văn bản mới để điều chỉnh, bổ sung việc quản lý ngoại hối thời gian tới. Trong thời gian qua khi NHNN thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, thận trọng đã đem lại một số tác dụng như việc quản lý tiền tệ, tín dụng, lãi suất, thị trường ngoại tệ, vàng đang đi vào hướng ổn định; hoạt động kinh doanh thu đổi ngoại tệ bước đầu đã lập lại trật tự theo qui định của pháp luật. Vì thế trong tương lai, để tiếp tục triển khai có kết quả cao hơn nữa các giải pháp chính sách tiền tệ, quản lý ngoại tệ, Thủ tướng đã yêu cầu Ngân hàng Nhà nước và các bộ liên quan cần tập trung triển khai các nhiệm vụ mới. Trong đó có việc trong tháng 4/2011, Ngân hàng Nhà nước phải trình Chính phủ việc ban hành nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 202/2004/NĐ-CP ngày 10/12/2004 của Chính phủ về xử phạt

  • phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo hướng tập trung xử lý các vi phạm về quản lý ngoại hối, kinh doanh vàng trong đó có các chế tài để xử lý nghiêm các vi phạm liên quan đến việc niêm yết, giao dịch, thanh toán, quảng cáo, mua bán, vận chuyển, thu đổi ngoại tệ, vàng không đúng các quy định pháp luật, kể cả việc đình chỉ, rút giấy phép hoạt động, tịch thu tài sản vi phạm. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước phải ban hành ngay thông tư hướng dẫn nhằm

kiểm soát chặt hoạt động thanh toán, niêm yết, quảng cáo bằng ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam. Đáng chú ý là Thủ tướng yêu cầu Ngân hàng Nhà nước ban hành qui định về trạng thái ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối thay thế qui định hiện hành theo hướng giảm giới hạn tổng trạng thái ngoại tệ dương và tổng trạng thái ngoại tệ âm của tổ chức tín dụng. Cũng theo chỉ đạo của Thủ tướng, Ngân hàng Nhà nước sẽ ban hành qui định mức ngoại tệ tiền mặt tối đa người cư trú được phép mang ra nước ngoài không phải khai báo hải quan tối đa là 5.000 đô la Mỹ. Trong quý 2/2011, Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu, ban hành các quy định về việc ngân hàng thương mại đáp ứng nhu cầu ngoại tệ chính đáng và hợp pháp của doanh nghiệp và người dân ở mức hợp lý, phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của Việt Nam.

Ngoài ra, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu thực hiện ngay việc quy định trần lãi suất tiền gửi ngoại tệ đối với cá nhân ở mức 3%; đồng thời, nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ thêm 2%. Những quy định này đã được Ngân hàng Nhà nước ban hành và đã thực hiện từ hôm 13/04/2011. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương và các cơ quan liên quan thành lập tổ công tác liên ngành để kiểm tra, giám sát chặt chẽ luồng ngoại tệ cho vay và thanh toán theo danh mục do Bộ Công Thương đề xuất.

Như vậy, với việc thắt chặt quản lý ngoại tệ bằng khá nhiều các biện pháp nêu trên là một khó khăn không nhỏ không chỉ đối với NHNo&PTNT VN nói riêng mà cho toàn bộ hệ thống NHTM nói chung. Việc quy định nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đồng thời để mức lãi suất tiền gửi ngoại tệ ở mức thấp sẽ khó thu hút được nguồn ngoại tệ gửi vào các ngân hàng, điều này càng tạo mức độ khan hiếm ngoại tệ của các ngân hàng. Bên cạnh đó, việc giảm hạn mức trạng thái ngoại tệ của các ngân hàng cũng sẽ khiến các ngân hàng phải cẩn trọng và suy tính kỹ càng trong việc mua bán ngoại tệ để không bị vượt quá giới hạn cho phép.

3.1.1.2. Nhu cầu ngoại tệ của các doanh nghiệp ngày càng gia tăng

Nhu cầu ngoại tệ của các doanh nghiệp nói chung và của của thị trường tiền tệ nói riêng vẫn luôn phát sinh và đặc biệt đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, theo tình hình như hiện nay khi mà các ngân hàng bắt buộc phải tăng tỷ lệ dự trữ bắt

buộc, rõ ràng nguồn vốn dành cho hoạt động cho vay ngoại tệ không được dồi dào, các ngân hàng sẽ chuyển sang việc hạn chế các đối tượng cho vay. Bên cạnh đó, khi tỷ giá đã có xu hướng ổn định, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu sẽ chuyển sang hình thức mua ngoại tệ để thanh toán, thay vì tranh thủ sử dụng nguồn vốn vay USD như ngày xưa.

Không những thế, các cá nhân vẫn luôn có nhu cầu mua ngoại tệ để đi thăm người nhà hoặc gửi tiền cho con đi du học, đi du lịch, tuy nhiên hiện nay do những yêu cầu bắt buộc về những thủ tục giấy tờ cần thiết để xác minh nguồn gốc việc sử dụng USD nên ít nhiều gây trở ngại đến việc cung ứng cho người dân. Trên thực tế, cá nhân cũng có nhu cầu mua USD rất nhiều, tuy vậy do thủ tục khó khăn, phức tạp và các ngân hàng vẫn chưa đủ ngoại tệ để cung ứng cho người dân, đây thực sự là thách thức lớn đối với NHNo&PTNT VN nếu muốn đáp ứng được nhu cầu ngoại tệ cho bộ phận này.

Như vậy có thể thấy nhu cầu ngoại tệ trên thị trường vẫn luôn có và áp lực của các ngân hàng là làm cách nào để có thể đáp ứng được nhu cầu ngoại tệ cho các khách hàng, khiến họ hài lòng và trở thành khách hàng thường xuyên của ngân hàng.

3.1.1.3. Hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam gặp nhiều khó khăn

Trong thời gian vừa qua cũng như trong thời gian tới các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam đã, đang và sẽ gặp nhiều khó khăn hơn do các yếu tố như lạm phát, lãi suất, nhất là việc tiếp cận vốn vay của doanh nghiệp sẽ ngày càng khó khăn hơn. Với mức lãi suất cao như hiện nay, hoạt động kinh doanh, đầu tư của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hệ lụy của lãi suất cao sẽ làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam thông qua giá bán. Khi vay với giá cao đã buộc nhà sản xuất phải tính chi phí đó vào giá thành. Sức cạnh tranh của hàng hoá kém đi, đồng nghĩa với việc các hợp đồng xuất khẩu sẽ giảm và nguồn thu ngoại tệ từ các doanh nghiệp này cũng không còn dồi dào như trước. Điều này đặt NHNo&PTNT VN nói riêng cũng như các NHTM khác vào một thực trạng là nguồn cung ứng ngoại tệ từ các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ giảm.

Bên cạnh khó khăn chung về việc tiếp cận vốn vay một cách không dễ dàng cùng mức lãi suất cao, một số ngành xuất khẩu vốn đang là thế mạnh của Việt Nam cũng đang gặp một số khó khăn riêng của ngành. Đầu tiên có thể kể đến những khó khăn của ngành dệt may. Do kinh tế Mỹ và EU vẫn còn đang gặp nhiều khó khăn, nên dự báo khối luợng hàng dệt may xuất khẩu trong năm nay sẽ ít hơn so với cùng kỳ năm trước. Ông Phạm Xuân Hồng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt May Việt Nam dự báo, nhiều thị trường xuất khẩu chính của dệt may Việt Nam sẽ gặp khó khăn hơn trong quý 3, 4 năm 2011, nên sức tiêu thụ tại những thị trường này đang giảm10. Chính vì vậy, năng lực sản xuất của nhiều doanh nghiệp sẽ dôi ra, dẫn đến việc lo thiếu đơn hàng. Thêm một lý do khiến thị trường xuất khẩu dệt may đột ngột có thay đổi là việc dịch chuyển đơn hàng trở lại sản xuất ở Trung Quốc. Trong 2 năm gần đây, Trung Quốc điều chỉnh cơ cấu và chính sách phát triển kinh tế, dẫn đến chi phí sản xuất hàng dệt may tại Trung Quốc tăng cao. Vì vậy, đã có làn sóng dịch chuyển đơn hàng sản xuất từ Trung Quốc sang các nước khác và Việt Nam là một trong những điểm đến của các nhà nhập khẩu hàng dệt may thế giới. Nhưng hiện tại, kinh tế Trung Quốc đang lạm phát ở mức cao. Trong tình hình này, ngành dệt may được quan tâm trở lại, Trung Quốc đã hạ giá để cạnh tranh, thu hút đơn hàng từ nhà nhập khẩu. Vì Trung Quốc có lợi thế về nguồn nguyên liệu tại chỗ, năng lực sản xuất nên dễ đưa ra giá bán cạnh tranh so với các nước khác trong khu vực.

  • nhóm hàng nông sản, ông Đỗ Hà Nam, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu Intimex, cho biết các doanh nghiệp nước ngoài đã đẩy mạnh mua các mặt hàng nông sản của Việt Nam và đưa toàn bộ vào kho ngoại quan11. Với lợi thế được vay vốn với lãi suất thấp, các doanh nghiệp này đã thao túng thị trường nông sản Việt Nam trong thời gian qua. Ở khía cạnh tích cực, nông dân đã bán được hàng hóa thuận lợi hơn trước. Tuy nhiên, nếu tình trạng này tiếp tục diễn ra, doanh nghiệp Việt Nam sẽ từng bước lụn bại. Tình trạng này kéo dài đã khiến nhiều doanh nghiệp xuất khẩu nông sản trong nước chuyển sang gia công cho doanh nghiệp nước ngoài. Cụ thể, trong ngành điều, sau khi mua nguyên liệu ở Việt Nam, các
  • Nguồn: Bài viết “Sản xuất dệt may- Nhiều khó khăn mới” của tác giả Mỹ Hạnh đăng trên website: sggp.org.vn

 

  • Nguồn: Bài viết “Doanh nghiệp xuất khẩu lo 6 tháng cuối năm” của tác giả Sơn Nghĩa đăng trên Thời báo Kinh tế Sài gòn Online, website: thesaigontime.vn.

thương nhân từ Indonesia, Ấn Độ… đến từng doanh nghiệp để thuê gia công lại. Đây sẽ là xu hướng tất yếu, nếu mỗi doanh nghiệp không đủ nội lực và không nhận được hỗ trợ cần thiết để tồn tại trong bối cảnh nền kinh tế còn khó khăn kéo dài.

Một ngành xuất khẩu chủ lực khác của Việt Nam trong nhiều năm qua là mặt hàng gỗ cũng đang có dấu hiệu chững lại, với mức tăng trưởng thấp trong sáu tháng đầu năm 2011. Theo ông Trần Quốc Mạnh, Phó chủ tịch Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ TPHCM (Hawa), hiện nay tốc độ tăng trưởng trung bình năm của ngành gỗ xuất khẩu đã giảm từ mức 35% xuống 15,4%12. Nguyên nhân chính vẫn là do nguyên vật liệu đầu vào tăng mạnh, nhưng giá xuất khẩu vẫn chững lại. “Đáng lo ngại nhất là một số mặt hàng gỗ của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ đang đối mặt với nguy cơ bị áp thuế chống bán phá giá”, ông Mạnh nói. Những thông tin này cần sớm được cảnh báo cho toàn bộ doanh nghiệp xuất khẩu gỗ trong nước. Việc Mỹ có

  • định tiếp tục áp thuế chống bán phá giá đối với mặt hàng gỗ của Trung Quốc sẽ ảnh hưởng đến Việt Nam. Hiện nay một số doanh nghiệp gỗ Trung Quốc đầu tư sang Việt Nam làm hàng xuất khẩu nhằm tránh thuế từ Mỹ càng gây khó khăn hơn cho ngành xuất khẩu gỗ Việt Nam.

Từ những khó khăn của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu một số mặt hàng chủ lực của Việt Nam kể trên, có thể thấy thực tế rằng các doanh nghiệp này đã, đang và sẽ đối mặt với khoảng thời gian khá khó khăn, lượng hàng xuất khẩu có xu hướng giảm đi. Như chúng ta cũng biết, nguồn thu ngoại tệ từ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu là nguồn thu ngoại tệ chủ chốt của một quốc gia. Do vậy, khi các các doanh nghiệp xuất nhập khẩu gặp khó khăn và giảm doanh số nghĩa là nguồn thu ngoại tệ của Việt Nam cũng sẽ giảm đi. Điều này thực tế sẽ gây khó khăn cho thị trường liên ngân hàng nói chung và NHNo&PTNT VN nói riêng. Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu là khách hàng của NHNo&PTNT VN cũng không nằm ngoài xu hướng chung kể trên. Do vậy, thực tế rõ ràng là nguồn mua ngoại tệ từ các khách hàng này sẽ có xu hướng giảm. Để có thể cân bằng cung- cầu, NHNo&PTNT VN sẽ phải tìm đến thị trường liên ngân hàng. Tuy vậy, có thể thấy rằng, do là xu

  • Nguồn: Bài viết “Doanh nghiệp xuất khẩu lo 6 tháng cuối năm” của tác giả Sơn Nghĩa đăng trên Thời báo Kinh tế Sài gòn Online, website:thesaigontime.vn

 

hướng chung của toàn thị trường nên nhu cầu về ngoại tệ tăng cao sẽ không phải là nhu cầu riêng của NHNo&PTNT VN mà cũng là nhu cầu chung của các NHTM khác. Điều này khiến cho khó khăn của NHNo&PTNT VN càng tăng do lượng cầu về ngoại tệ tăng trong khi lượng cung có xu hướng giảm.

Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu, như đã phân tích ở trên, do chính sách thắt chặt quản lý ngoại tệ từ NHNN, dẫn đến việc nguồn tín dụng cho vay ngoại tệ sẽ suy giảm, lãi suất không còn thấp như trước, điều này sẽ khiến các doanh nghiệp nhập khẩu đối mặt với khó khăn trong việc tìm nguồn ngoại tệ để thanh toán cho các hợp đồng của mình. Ngày 24/3/2011 Thống đốc NHNN đã ban hành Thông tư số 07/2011/TT-NHNN quy định cho vay bằng ngoại tệ của TCTD đối với khách hàng vay là người cư trú. Thông tư quy định khách hàng vay vốn bằng ngoại tệ để thanh toán tiền nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ phải có đủ nguồn thu ngoại tệ hoặc được TCTD cam kết bán ngoại tệ để trả nợ. Mục đích ban hành Thông tư nhằm phù hợp với khả năng huy động vốn ngoại tệ ở trong nước của TCTD; kiểm soát tín dụng, hạn chế được các nhu cầu vay vốn bằng ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa thuộc Danh mục các mặt hàng nhập khẩu không thiết yếu, hàng tiêu dùng không khuyến khích nhập khẩu do Bộ Công thương ban hành theo chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011; chuyển dần quan hệ huy động – cho vay bằng ngoại tệ trong nước của TCTD sang quan hệ mua – bán ngoại tệ hạn chế tình trạng đô la hoá. Điều này đặt ra một thực tế là NHNo&PTNT VN sẽ phải sẵn sàng cung ứng được lượng ngoại tệ, đáp ứng được nhu cầu cho khách hàng để khách hàng có thể thực hiện việc thanh toán các hợp đồng ngoại của mình. Nếu như trước kia, trong trường hợp thiếu vốn ngoại tệ, NHNo&PTNT VN với uy tín của mình có thể dùng hình thức đi vay tài trợ từ các ngân hàng nước ngoài rồi sau đó tái tài trợ lại cho các doanh nghiệp thông qua các hợp đồng tín dụng ngoại tệ, thì với việc thắt chặt cho vay tín dụng bằng ngoại tệ, các khách hàng sẽ buộc lòng phải chuyển sang việc mua trực tiếp bằng ngoại tệ để thanh toán. Điều này khiến nhu cầu về ngoại tệ tăng, trong khi như đã phân tích ở trên, lượng cung ngoại tệ đang có xu hướng giảm. Đây sẽ là khó khăn khá lớn mà NHNo cần đối mặt và tìm ra các giải pháp phù hợp.

3.1.1.4. Nền kinh tế thế giới chưa thoát khỏi tình trạng suy thoái

Có một thực tế đáng buồn là kinh tế nhiều nước vẫn chưa thoát khỏi “mê cung suy thoái”, trong khi bóng ma “suy thoái kép” vẫn đang ám ảnh các nền kinh tế phát triển. Hai năm sau cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, kinh tế Mỹ vẫn tăng trưởng yếu, trong khi kinh tế châu Âu vẫn vật vã với gánh nặng khủng hoảng nợ và thâm hụt ngân sách cao. Kinh tế Nhật Bản cũng trở nên khó khăn hơn sau trận động đất, sóng thần và vụ nổ nhà máy hạt nhân Fukushima thời gian vừa qua. Nhiều nhà phân tích cho rằng triển vọng kinh tế thế giới, đặc biệt của ba nền kinh tế hàng đầu nói trên, là rất u ám và vẫn đối mặt nguy cơ suy thoái kép.

Thị trường nhà đất Mỹ -lĩnh vực được coi là châm ngòi cho cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu- vẫn chưa hồi phục, khi doanh số bán nhà không tăng và các công cụ tài chính có liên quan tới thị trường cho vay thế chấp vẫn tỏ ra kém hiệu quả. Từng khiến các học giả khác “ngỡ ngàng” với dự báo năm 2007 về khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 giữa lúc thế giới còn đang hân hoan với thời kỳ bùng nổ kinh tế, nhà kinh tế Nouriel Roubini của Đại học New York cho rằng tình trạng thất nghiệp cao gần 10% hiện nay ở Mỹ rất khó được cải thiện, và thậm chí có thể tỷ lệ này có thể tăng lên 17% nếu tính cả những lao động tạm thời. Ông nói: “Kinh tế Mỹ phải tạo ra trung bình 150.000 việc làm hàng tháng trong lĩnh vực tư nhân để giữ cho tỷ lệ thất nghiệp không tăng và phải tạo thêm 300.000 việc làm/tháng trong vòng 3 năm tới để đưa thị trường lao động trở lại mức tiền khủng hoảng. Rất ít người tin rằng Mỹ có khả năng tạo đủ số việc làm trên lý thuyết đó, nhất là trong bối cảnh khó khăn hiện nay”13. Theo ông, khả năng kinh tế Mỹ rơi vào suy thoái kép là 40% hoặc cao hơn nữa. Nhà sử học Niall Ferguson (Đại học Harvard) nhìn nhận kinh tế Mỹ theo một khía cạnh khác. Ông lưu ý rằng kể từ năm 2001, tỷ lệ nợ/GDP của nền kinh tế lớn nhất thế giới này đã tăng gấp đôi và đang tiến dần tới “ngưỡng nguy hiểm” 100%. Điều này cho thấy chính sách tài khóa của Mỹ là không ổn định. Trong khi đó, Giáo sư kinh tế Hans-Werner Sinn (Đại học Munich) cho rằng mức sống của người dân Mỹ sẽ xuống cấp sau nhiều năm tăng cao một phần

  • Nguồn: Bài viết “Thế giới vẫn chưa thoát khỏi mê cung suy thoái” của tác giả Khoa Việt đăng trên website baomoi.com.

nhờ nguồn “vay nợ dồi dào”. Tại châu Âu, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) mới đây cho rằng các điều kiện của thị trường tiền tệ Khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) đã cải thiện, song tương lai vẫn còn bất trắc.

Như vậy, có thể thấy các nền kinh tế lớn trên thế giới vẫn chưa thoát khỏi tình trạng suy thoái. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến các nền kinh tế khác trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Đặc biệt trong tình trạng suy thoái như hiện nay, người dân sẽ vẫn phải sống trong tình cảnh thắt lưng buộc bụng, ảnh hưởng tới hoạt động xuất nhập khẩu của các nước nói chung trong đó có Việt Nam. Như đã phân tích ở trên, khi các doanh nghiệp xuất nhập khẩu gặp khó khăn đồng nghĩa với việc hoạt động KDNT tại các NHTM nói chung và tại NHNo&PTNT VN nói riêng sẽ gặp không ít khó khăn. Bên cạnh đó, việc chưa thoát khỏi tình trạng suy thoái cũng khiến cho các ngân hàng trên thế giới nói chung kể cả những ngân hàng lớn, có uy tín cũng gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh. Điều này khiến cho lãi suất cho các khoản tiền gửi ngoại tệ của NHNo&PTNT VN cũng suy giảm đáng kể. Bên cạnh đó, trước tình hình khó khăn chung như hiện nay, để tránh rủi ro, NHNo&PTNT VN cũng có những quy định chặt chẽ về việc đầu tư các khoản vốn ngoại tệ trên các tài khoản đặt tại nước ngoài, theo đó quy định không được để quá nhiều ngoại tệ tại các tài khoản này. Điều này sẽ làm giảm bớt lãi do hoạt động đầu tư kinh doanh qua đêm từ các tài khoản này mang lại. Việc này sẽ khíến cho nguồn thu nhập từ ngoại tệ tại NHNo&PTNT VN ít đi và từ đó tạo áp lực lên hoạt động KDNT phải thực hiện tốt hơn để có thể đáp ứng được nhu cầu của hệ thống.

3.1.1.5. Thị trường hối đoái  vẫn chưa hoàn thiện

Hoạt động kinh doanh ngoại tệ muốn mở rộng, phát triển hơn nữa phải có một nền tảng vững chắc là thị trường hối đoái. Hiện nay, ở Việt Nam chưa có một thị trường hối đoái hoàn chỉnh theo đúng nghĩa của nó mà chỉ ở giai đoạn sơ khai là thị trường giao dịch ngoại tệ và thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Mặc dù đã đạt được những thành tích đáng khích lệ song thị trường ngoại tệ liên ngân hàng vẫn bộc lộ một số hạn chế ảnh hưởng tới hoạt động KDNT của NHNo nói riêng và của các NHTM nói chung. Hiện nay, trên thị trường chưa có các nhà môi giới ngoại hối chuyên nghiệp để tạo điều kiện cho cung cầu gặp nhau, hiện nay chức năng này chỉ có Sở giao dịch NHNN đảm nhiệm. Bên cạnh đó việc đối tượng tham gia thị trường

còn hạn chế cũng là khó khăn chung của các NHTM trong đó bao gồm cả NHNo&PTNT VN. Chúng ta biết rằng trong các tầng lớp dân cư hiện nay còn tồn đọng một lượng ngoại tệ mặt rất lớn. Nếu đối tượng tham gia thị trường được mở rộng không giới hạn sẽ thu hút được một bộ phận lớn dân cư tham gia thị trường, hạn chế được các hoạt động mua bán trên thị trường “chợ đen”. Điều này cũng sẽ tạo cho NHNo&PTNT VN cũng như các NHTM khác có một không gian rộng hơn để giao dịch, có thêm nhiều lựa chọn hơn.

Thứ hai, thiếu một thị trường tiền tệ hoàn hảo. Thị trường ngoại hối và thị trường tiền tệ có mối quan hệ mật thiết với nhau. Các nhà đầu tư nước ngoài có thể đầu tư các khoản đầu tư ngắn hạn bằng cách mua cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu kho bạc… Nhưng điều quan tâm hàng đầu của họ là tính lỏng của tài sản đang nắm giữ. Hiện nay tính lỏng của các tài sản này chưa cao, việc thực hiện chuyển đổi tự do trên thị trường chưa phát triển nhiều. Điều này sẽ khiến cho không chỉ NHNo&PTNT VN mà các NHTM khác khó có thế sử dụng các nghiệp vụ như mua, bán, cho vay ngoại tệ trên thị trường ngoại hối, để từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động KDNT.

Bên cạnh đó, chính sách tỷ giá hiện nay của NHNN là lấy tỷ giá chính thức trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng vào ngày giao dịch trước đó và khống chế biên độ giao động ở mức là +/-5% đang là điểm bất lợi cho không chỉ NHNo&PTNT VN mà cũng khiến các NHTM khác gặp nhiều khó khăn trong KDNT. Trong thời điểm cung cầu thị trường đã vượt xa mức tỷ giá chính thức nhưng biên độ quá hẹp khiến cho NHNo&PTNT VN gặp nhiều khó khăn trong việc niêm yết tỷ giá mua bán, không tạo được sự thu hút với khách hàng.

Cuối cùng, trình độ hiểu biết của dân chúng về thị trường ngoại hối và các nghiệp vụ kinh doanh trên thị trường này còn rất hạn chế. Ngay cả các doanh nghiệp Việt Nam cũng chỉ quen với nghiệp vụ mua bán ngoại tệ giao ngay mà chưa có thói quen mua bán kỳ hạn, họ để mặc rủi ro về tỷ giá. Do vậy, các NHTM nói chung và NHNo&PTNT VN nói riêng khó có thể mở rộng các nghiệp vụ mua bán ngoại tệ vốn có của thị trường ngoại hối như mua bán có kỳ hạn, SWAP, mua bán quyền chọn…

3.1.2. Những thách thức

3.1.2.1. Sự cạnh tranh giữa các NHTM trong hoạt động KDNT sẽ ngày càng khốc liệt

Hiện nay khi mà Việt Nam đã gia nhập WTO, sân chơi chung cho các ngân hàng đã trở nên bình đẳng, đồng thởi cũng trở nên khắc nghiệt hơn nhiều với sự xuất hiện của các ngân hàng nước ngoài từ hình thức đơn giản như mở văn phòng đại diện hoặc chi nhánh tại Việt Nam tới việc thành lập cả những ngân hàng 100% vốn nước ngoài (có thể kể đến như HSBC, ANZ, Standard Chartered Bank…). Với sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài thì thị trường tài chính ngân hàng Việt Nam đã thực sự trở nên ngày một khốc liệt. Sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường là điều có thể dễ dàng nhìn thấy và nhận ra. Hiện tại thì sự cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại trong nước đã và đang diễn ra hết sức khốc liệt. Chưa kể đến việc gia nhập của các ngân hàng thương mại nước ngoài với nguồn vốn và kinh nghiệm cao hơn chúng ta khá nhiều.

Đây là một thách thức lớn mà các ngân hàng thương mại trong nước cần phải lưu tâm và tìm cách để vượt qua. Nếu như từ trước đến nay, những ngân hàng được coi là ông lớn trên thị trường liên ngân hàng với thế mạnh là nguồn vốn lớn như ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, ngân hàng Ngoại thương, ngân hàng Đầu tư và Phát triển, ngân hàng Công thương có thể tự tin ở vị thế lớn mạnh của mình, thì với tình hình như hiện nay, nếu không tập trung, tìm cách phát triển hợp với xu thế chung, trau dồi kinh nghiệm kinh doanh, học hỏi tích luỹ và thay đổi thì những ngân hàng này cũng có thể bị đánh bật khỏi vị trí của mình. Riêng đối với NHNo&PTNT VN, sau một số những ảnh hưởng từ việc phá sản của Công ty cho thuê tài chính 2, điều này khiến uy tín của ngân hàng cũng bị giảm sút phần nào. Không những thế, từ trước tới nay hoạt động KDNT tại NHNo&PTNT VN chưa thực sự tương xứng với tầm vóc của một NHTM hàng đầu Việt Nam do chính sách trong thời gian qua của NHNo&PTNT VN mới chỉ tập trung đáp ứng được nhu cầu ngoại tệ cho toàn hệ thống chứ chưa thực sự đặt mục tiêu lợi nhuận từ hoạt động KDNT lên hàng đầu. Do đó, trên thực tế, kinh nghiệm trong việc thực hiện hoạt động KDNT của NHNo&PTNT VN so với một số ngân

hàng lớn khác trong nước như Vietcombank, BIDV hay đặc biệt so với các ngân hàng nước ngoài chắc chắn còn nhiều hạn chế. Do vậy, để đối mặt với sự cạnh tranh đang ngày một khốc liệt như hiện nay NHNo&PTNT VN buộc phải thay đổi và đưa ra được chiến lược phù hợp thì mới có thể vượt qua được khó khăn này.

3.1.2.2. Nguồn ngoại tệ của NHNo&PTNT VN

Nguồn ngoại tệ của NHNo&PTNT VN chủ yếu lấy từ việc bán của các chi nhánh trong hệ thống khi mà các chi nhánh này vượt quá hạn mức cho phép và mua trên thị trường liên ngân hàng. Bên cạnh đó nguồn ngoại tệ của NHNo&PTNT VN còn được thu hút thông qua việc huy động vốn ngoại tệ. Tuy nhiên, hiện nay việc duy trì khá nhiều tài khoản ngoại tệ tại các ngân hàng nước ngoài cũng đã khiến nguồn ngoại tệ trong hệ thống bị chia nhỏ, khó tập trung và mất nhiều công sức trong việc quản lý. Bên cạnh đó việc huy động vốn ngoại tệ từ các nguồn truyền thống như khách hàng cá nhân hoặc vay từ các đối tác cũng đang gặp nhiều khó khăn do lãi suất huy động hiện nay đang để ở mức thấp, bên cạnh đó do thời gian vừa qua Việt Nam vừa bị đánh tụt hạng về các chỉ số an toàn nên các đối tác đã giảm hạn mức cho vay thương mại đối với các ngân hàng trên thị trường Việt Nam. Điều này đang thực sự khiến cho nguồn cung ngoại tệ của NHNo&PTNT VN gặp nhiều khó khăn trong khi nhu cầu ngoại tệ để thanh toán các hợp đồng ngoại thương vào cuối năm thường tăng mạnh.

3.1.2.3. Chiến lược KDNT của NHNo&PTNT VN chưa mang tính chủ động và bền vững

Mục tiêu thực hiện hoạt động KDNT của NHNo&PTNT VN hiện nay mới chủ yếu tập trung vào việc đáp ứng nhu cầu về ngoại tệ của toàn hệ thống, đảm bảo thanh khoản và kinh doanh sinh lời trong đó việc đáp ứng được nhu cầu ngoại tệ của toàn hệ thống được đặt lên làm mối quan tâm hàng đầu. Chính vì vậy nên nhiều khi NHNo&PTNT VN phải chấp nhận việc thua lỗ để đảm bảo mục tiêu hàng đầu nói trên. Cả quá trình mua bán chủ yếu mới chỉ xuất phát từ nhu cầu của khách hàng còn ngân hàng chưa có nhữg động thái để tạo ra nhu cầu.

Trong chiến lược KDNT của NHNo&PTNT VN hiện nay cũng chưa đề cập tới việc có phát triển các nghiệp vụ kinh doanh mới hay không, trong khi đó trong

tương lai gần (có thể là cuối năm) NHNN sẽ cho phép các NHTM thực hiện nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ quyền chọn . Do vậy, nếu không có chiến lược đúng đắn để chuẩn bị sẵn tinh thần cũng như kinh nghiệm thì đến khi NHNN cho phép thực hiện các giao dịch này, NHNo&PTNT VN sẽ không thể chủ động và kịp thời thực hiện được những giao dịch này, sẽ làm mất lợi thế của mình so với các NHTM khác.

Bên cạnh đó những hoạt động đầu cơ chưa được thực hiện do độ rủi ro cao và chưa có những quy trình, thủ tục hướng dẫn và kiểm soát việc thực hiện những hành

  • này. Đồng thời NHNo&PTNT VN cũng chưa đưa ra được một chiến lược chi tiết là các bước đi trong dài hạn, quá trình thực hiện như thế nào, đưa ra những nhận định tương lai, điều kiện cần bổ sung để hoàn thành…

Cuối cùng, một yếu tố khác thể hiện việc chiến lược của NHNo&PTNT VN chưa thực sự chủ động đó là việc thiếu các chiến lược quảng bá cho dịch vụ KDNT của mình. Việc đưa quảng cáo lên các phương tiện thông tin đại chúng thì gần như không có, còn thông tin về các nghiệp vụ KDNT trên trang web của ngân hàng thì

quá sơ sài, chỉ mang tính hướng dẫn và kém kích thích với khách hàng.

3.2. Các giải pháp cụ thể đối với NHNo&PTNT VN

3.2.1. Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng của các hoạt động nghiệp vụ cụ thể trong hoạt động KDNT của NHNo&PTNT VN

3.2.1.1. NHNo&PTNT VN cần tận dung khai thác các nguồn cung ngoại tệ

Để có thể tận dụng được nguồn cung ngoại tệ một cách tốt nhất, Ban Tổng thu hút những khách hàng có nguồn cung ngoại tệ dồi dào, với số lượng lớn để họ bán lại cho ngân hàng trong những thời điểm thiếu hụt ngoại tệ. Ban Tổng giám đốc có thể có những chính sách ưu đãi hơn cho các chi nhánh có khi họ bán được nhiều ngoại tệ cho Sở giao dịch (sau khi bản thân các chi nhánh đã tự cân đối hạn mức mình được cho) như việc: các chi nhánh này sẽ được mua ngoại tệ khi có nhu cầu với mức giá ưu đãi hoặc số lượng ưu đãi hơn, hoặc các chi nhánh có thể được phép nâng hạn mức tự doanh của mình khi hoạt động KDNT đạt kết quả tốt. Bên cạnh đó bản thân các chi nhánh cần chủ động thực hiện các chiến dịch Marketing để khách hàng có thể tiếp cận và hiểu rõ hơn những dịch vụ mà chi nhánh có thể cung cấp cho khách hàng.

Như chúng ta cũng biết, một trong những yếu tố để thu hút khách hàng bán bán ngoại tệ cho ngân hàng đó là chính sách giá cả. Do vậy, các chi nhánh cần áp dụng một chính sách giá cả hấp dẫn phù hợp với từng đối tượng khách hàng phù hợp trên cơ sở cân đối chi phí, lợi nhuận, thị phần và các mục tiêu khác mà NHNo&PTNT Việt Nam đặt ra. Giá cả mà chúng ta đang nhắc đến ở đây đó chính là tỷ giá, như vậy tức là tỷ giá mua bán ngoại tệ ở các chi nhánh không nên quá cứng nhắc, gò bó mà cần linh hoạt và phù hợp với cung cầu ngoại tệ trên thị trường, đồng thời vẫn đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng. Mức tỷ giá này có thể cân nhắc thay đổi linh hoạt tuỳ thuộc vào từng đối tượng khách hang, từng thời điểm và từng loại hình dịch vụ cụ thể. Đồng thời có những chính sách ưu đãi đối với những khách hàng cung có thể bán cho ngân hàng một loại ngoại tệ lớn. Có như vậy mới giảm được tình trạng găm giữ ngoại tệ trong dân chúng và các tổ chức kinh tế hoạt động trên lĩnh vực xuất nhập khẩu, đồng thời góp phần giảm bớt sự căng thẳng cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Mua bán ngoại tệ sôi động sẽ làm cho sự vận động của thị trường ngoại hối càng trở nên trơn tru hơn, tiếp sức cho nền kinh tế phát triển tự tin hơn.

3.2.1.2. NHNo&PTNT VN cần linh hoạt trong chính sách đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh ngoại tệ

Như đã phân tích ở trên, hiện nay NHNo&PTNT VN đang thực hiện 3 loại hình giao dịch KDNT đó là: giao ngay, kỳ hạn và hoán đổi, trong đó nghiệp vụ KDNT giao ngay chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giao dịch còn các nghiệp vụ còn lại chiếm một phần nhỏ. Riêng hợp đồng quyền chọn và hợp đồng tương lai vẫn chưa được thực hiện. Như vậy có thể thấy hoạt động KDNT tại NHNo&PTNT VN chủ yếu còn mang tính sơ khai, chưa có sự kết hợp chặt chẽ với thị trường tiền tệ và chưa có hoạt động dự trữ đầu cơ.

Trên thị trường thế giới, nghiệp vụ quyền chọn và nghiệp vụ kinh doanh tương lai có tính phòng ngừa rủi ro hết sức hiệu quả và đã được thực hiện từ rất lâu. Hiện tại, NHNo&PTNT VN vẫn chưa thực hiện được giao dịch này do chưa có chưa có một hệ thống quản trị rủi ro hoàn thiện và chưa thể tính giá quyền chọn. Trong tương lai NHNo&PTNT VN cần tích cực hơn nữa trong việc làm việc với các ngân hàng nước ngoài có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực này, để họ tư vấn và dần dần

từng bước thực hiện những giao dịch quyền chọn đầu tiên. Còn với loại hình giao dịch tương lai, do hiện tại những giao dịch này trên tại thị trường Việt Nam vẫn chưa phát triển và do nguồn lực của NHNo&PTNT VN còn nhiều hạn chế, nên trong thời gian trước mắt, có thể chưa cần tập trung phát triển loại hình giao dịch này.

Riêng đối với loại hình giao dịch kỳ hạn và hoán đổi, do chưa quen với những loại hình giao dịch này nên khách hàng của NHNo&PTNT VN chắc chắn còn nhiều bỡ ngỡ. Do vậy các chi nhánh trên toàn hệ thống cần có có những cán bộ thật giỏi nghiệp vụ để tư vấn, giới thiệu cho khách hàng hiểu rõ hơn những lợi ích mà nghiệp vụ này có thể mang lại. Từ đó, khách hàng sẽ biết đến và sử dụng các loại hình giao dịch này nhiều hơn.

3.2.2. Nhóm giải pháp tăng cường và thường xuyên đánh giá hiệu quả hoạt động KDNT

3.2.2.1. NHNo&PTNT VN cần chủ động tổ chức các cuộc khảo sát thăm dò ý kiến của khách hàng và chi nhánh về nhu cầu ngoại tệ cũng như các quy trình và thủ tục có liên quan

NHNo &PTNT VN cần có những cuộc khảo sát thăm dò các chi nhánh về việc thực hiện hoạt động KDNT, để các chi nhánh nêu lên các khó khăn, vướng mắc, đồng thời có những kiến nghị riêng về quy trình thủ tục đang được áp dụng và thực hiện. Các chi nhánh chính là những người làm trực tiếp với khách hàng, họ là người sẽ phải tìm hiểu nhu cầu của khách hàng để từ đó đưa ra được nhu cầu về ngoại tệ của chi nhánh. Đồng thời, NHNo&PTNT VN cũng có thể đưa ra một mẫu phiếu thăm dò khách hàng xem ý kiến phản hối của khách hàng về dịch vụ mà ngân hàng đang cung cấp, những nhu cầu về ngoại tệ của khách hàng đã được đáp ứng đầy đủ hay chưa, có vấn đề gì khúc mắc trong quy trình thủ tục thực hiện hay không. Bên cạnh đó, NHNo&PTNT VN có thể cứ các đoàn công tác xuống trực tiếp làm việc với các chi nhánh, tiếp xúc trực tiếp với các khách hàng để nghe những ý kiến đóng góp của họ, từ đó có những thay đổi và vạch ra chiến lược phát triển một cách hợp lý.

3.2.2.2. NHNo&PTNT VN cần xây dựng những tiêu chí cụ thể, rõ ràng và phù hợp nhằm đánh giá hiệu quả hoạt động KDNT, từ đó định kỳ hàng năm căn cứ vào những tiêu chí này để đánh giá đồng thời có chính sách khen thường đối với những chi nhánh đạt hiệu quả tốt

Hiện nay, NHNo&PTNT VN vẫn chưa có một bảng tiêu chí cụ thể nào đánh giá về việc chi nhánh nào hoạt động có hiệu quả hơn trong lĩnh vực KDNT, do vậy cũng chưa có những cơ chế ban thưởng hợp lý, kích thích khả năng làm việc của các cán bộ. Trong tương lai, NHNo&PTNT VN cần xây dựng những tiêu chí cụ thể phù hợp với mục đích tiến hành hoạt động KDNT của ngân hàng mình nhằm khuyến khích động viên các chi nhánh hoạt động tốt và nhắc nhở các chi nhánh còn hoạt động chưa hiệu quả. Điều này sẽ kích thích khiến các chi nhánh chủ động hơn trong việc tìm kiếm khách hàng, tư vấn cho khách hàng sử dụng dịch vụ của ngân hàng mình.

Bên cạnh đó hàng năm, NHNo&PTNT VN nên tổ chức hội nghị tổng kết về hoạt động kinh doanh đối ngoại nhằm tạo điều kiện cho các chi nhánh trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Ngân hàng cũng nên thường xuyên có các buổi hội thảo chuyên đề KDNT, các buổi nói chuyện về tình hình kinh tế, chính trị của các nước trên thế giới, trong đó cung cấp những thông tin cần thiết và giải đáp thắc mắc. Đồng thời tăng cường tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn nghiệp vụ về thanh toán quốc tế và KDNT cho các cán bộ lãnh đạo và các nhân viên nghiệp vụ của các chi nhánh.

3.2.3. Nhóm giải pháp tích cực khai thác các nhân tố có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả hoạt động KDNT

3.2.3.1. NHNo&PTNT VN cần có chính sách đủ mạnh để thu hút và phát triển nguồn nhân lực

Như đã phân tích ở trên, con người luôn là yếu tố chủ đạo, quan trọng nhất trong các hoạt động vì con người chính là chủ thể để thực hiện những hoạt động đó. Do vậy, đối với NHNo&PTNT VN, muốn đạt hiệu quả cao trong công việc thì yếu tố cần quan tâm đầu tiên là làm sao có được một đội ngũ cán bộ năng động, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ, đồng thời am hiểu pháp luật và có đạo đức trong kinh

doanh. Để có được một đội ngũ như vậy thì trước tiên, ngân hàng cần có chế độ tuyển dụng một cách hợp lý nhằm sử dụng được các nhân viên có bằng cấp chuyên môn, tinh thông nghiệp vụ đáp ứng được nhu cầu hiện tại đang thay đổi của ngân hàng, đồng thời có phẩm chất đạo đức tốt, tác phong làm việc nhanh nhẹn, phong cách giao tiếp cởi mở, lịch sự. Tăng cường thu hút các sinh viên xuất sắc từ các trường đại học về làm việc.

Bên cạnh đó, KDNT là một lĩnh vực mới, nhạy cảm và sẽ là một hoạt động ngày càng phát triển trong mô hình ngân hàng hiện đại. Vì vậy, NHNo&PTNT VN cần có chính sách đầu tư thích đáng, tài trợ cho các cán bộ chuyên môn đi học tập, nâng cao trình độ ở cả trong và ngoài nước, tạo điều kiện khuyến khích các cán bộ được học trong khả năng. Hoạt động KDNT đòi hỏi khá nhiều điều kiện khắt khe đối với những cán bộ thực hiện giao dịch. Một cán bộ thực sự giỏi là một cán bộ không những am hiểu về nghiệp vụ mình làm mà còn phải đáp ứng năng lực về ngoại ngữ, am hiểu pháp luật và các thông lệ quốc tế, sử dụng thành thạo các thiết bị hiện đại phục vụ công việc, có sức khỏe tốt, có khả năng thu thập thông tin, phân tích tình hình kinh tế vĩ mô, chính trị…, có sự nhạy cảm trong nghề nghiệp, có tính quyết đoán, có kỷ luật và đạo đức nghề nghiệp để xử lý tình huống, giao dịch một cách có hiệu quả nhất.

Tuy nhiên, NHNo&PTNT VN cũng cần chú ý đến việc phân loại và có những chương trình đào tạo riêng đối với cấp quản lý và cấp cán bộ do những yêu cầu về một quản lý giỏi chắc chắn sẽ có những yếu tố khác hơn so với yêu cầu về một cán bộ giỏi. Chẳng hạn như, đối với các nhà quản lý, bên cạnh việc đào tạo cho họ có một kiến thức chuyên môn sâu rộng thì cũng cần phải bồi dưỡng cho họ những kiến thức về quản trị nhân sự, quản trị doanh nghiệp, cơ sở lý luận chính trị…. Không

những thế, cần chú trọng quy hoạch và có định hướng bồi dưỡng những cán bộ trẻ, có năng lực, cho họ tiếp xúc với những chương trình đào tạo mang chuẩn mức quốc tế để chuẩn bị cho thế hệ lãnh đạo tương lai đáp ứng được xu thế hội nhập quốc tế.

Cuối cùng, để thu hút và phát triển được những nguồn nhân lực trẻ trong một môi trường cạnh tranh và nhiều áp lực như hiện nay thì NHNo&PTNT VN cần có một chế độ phúc lợi tốt nhằm động viên tinh thần, nuôi dưỡng các nhân tài phục vụ cho sự phát triển trong tương lai của toàn hệ thống. Cần có những chính sách khen

thưởng rõ ràng, lấy hiệu quả công việc làm thước đo khen thưởng, có những món quà kịp thời để động viên tinh thần của cán bộ.

3.2.3.2. NHNo&PTNT VN cần tăng cường đầu tư để hiện đại hoá cơ sở vật chất và công nghệ ngân hàng

Trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay thì đối với mọi hoạt động kinh doanh, việc nắm bắt thông tin là nhu cầu tất yếu và người ta đã chứng kiến được sức mạnh kinh khủng của những người nắm bắt được nhiều thông tin nhất. Hoạt động KDNT không phải là một ngoại lệ. Không những thế, hoạt động này còn chịu ảnh hưởng rất nhiều từ những yếu tố như kinh tế, chính trị, xã hội… do vậy yêu cầu nắm bắt thông tin một cách chính xác, nhanh nhậy trong hoạt động KDNT là một nhu cầu khác nhau. Muốn thực hiện được việc này thì một yếu tố không thể thiếu đó là các trang thiết bị, phương tiện hiện đại sử dụng những công nghệ kỹ thuật cao để việc cung cấp được các thông tin thường xuyên được cập nhật, xử lý tình huống được nhanh nhạy.

Như vậy để hoạt động KDNT đạt hiệu quả cao, phòng Kinh doanh ngoại hối của các chi nhánh cần được trang bị hệ thống máy tính nối mạng với tốc độ cao, đầu tư các trang thiết bị cơ sở vật chất hạ tầng để tạo bộ mặt của một phòng giao dịch hiện đại, năng động, lịch sự và văn minh. Riêng đối với Sở giao dịch, do đây là trung tâm đầu mối của toàn hệ thống, đuợc phép đại diện cho cả hệ thống thực hiện giao dịch với thị trường liên ngân hàng trong và ngoài nước cũng như thực hiện cho toàn bộ hệ thống thì cần có một hệ thống đường mạng riêng kể kết nối với NHNN và thị trường ngoại tệ liên ngân hàng nhằm có những thông tin nhanh nhất về tình hình diễn biến trên thị trường.

Bên cạnh đó, để thực hiện được hoạt động kinh doanh quyền chọn, NHNo&PTNT VN có thể tiến hành mua phần mềm quản trị rủi ro từ Reuter hoặc Bloomberg với độ tín nhiệm cao để từ đó có cơ sở tính được giá quyền chọn và đảm bảo an toàn trong việc thực hiện giao dịch.

3.2.3.3. NHNo&PTNT VN cần tích cực hơn trong việc sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ

Hoạt động KDNT tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, do vậy để đạt được hiệu quả cao trong hoạt động này cần phải sử dụng các công cụ phỏng ngừa rủi ro một cách hữu hiệu, hạn chế những thiệt hại do những rủi ro mang lại. Một trong những công cụ có thể phòng ngừa rủi ro trong hoạt động KDNT đó là sử dụng công cụ phái sinh. Công cụ phái sinh là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công cụ đã có nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận và tạo ra lợi nhuận. Giá trị của công cụ phái sinh bắt nguồn từ một số công cụ cơ sở khác như tỷ giá, lãi suất, trị giá cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số chứng khoán…công cụ phái sinh xuất hiện lần đầu tiên nhằm hạn chế hoặc loại bỏ hoàn toàn rủi ro, trong đó thường được sử dụng nhất là hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn, hợp đồng hoán đổi. Hiện nay, NHNo&PTNT VN có thể tận dụng việc sử dụng các hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng hoán đổi nhằm phòng ngừa rủi ro về tỷ giá. Hợp đồng kỳ hạn là công cụ lâu đời nhất, rất hiệu quả trong việc phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Hợp đồng kỳ hạn được sử dụng để bảo hiểm tỷ giá khi có dự đoán tỷ giá sẽ tăng trong tương lai. Hợp đồng hoán đổi có thể được sử dụng tại thời điểm đang tạm dư thừa một đồng tiền này nhưng lại thiếu hụt đồng tiền khác. Giao dịch hoán đổi sẽ giúp cân đối nguồn vốn và tiết kiệm chi phí cho tổ chức.

Trạng thái ngoại tệ của các chi nhánh trong hệ thống đang được kiểm soát rất chặt chẽ bởi NHNo&PTNT VN thông qua đầu mối là Sở giao dịch. Mỗi chi nhánh chỉ được cấp một hạn mức nhất định tùy thuộc vào hoạt động thanh toán ngoại thương của từng chi nhánh và hạn mức này thường là rất nhỏ. Khi phát sinh mua và bán ngoại tệ với khách hàng các chi nhánh thường cân bằng ngay với Sở giao dịch nên rủi ro khi biến động tỷ giá là không đáng kể. Như vậy rủi ro chủ yếu xảy ra tại Sở giao dịch, do vậy riêng đối với Sở giao dịch cần tập trung nhiều hơn nữa các biện pháp nhằm hạn chế rủi ro vì nơi đây chính là nơi thực hiện phần lớn hoạt động KDNT. Tại Sở giao dịch cần phải có một hệ thống quản trị hoạt động kinh doanh ngoại hối hoạt động song song với hệ thống hạch toán kế toán đang được thực hiện tại phòng kế toán. Các ngân hàng nước ngoài luôn có hai hệ thống độc lập, một hệ thống được sử dụng tại phòng giao dịch và hệ thống còn lại vận hành tại phòng kế

toán. Tác dụng của việc vận hành hai hệ thống là rất to lớn. Thứ nhất, dữ liệu trong hệ thống này có thể là nguồn để đối chiếu với dữ liệu của hệ thống kia và do vậy sẽ đảm bảo không để xảy ra rủi ro hoạt động. Sẽ không còn tồn tại những trường hợp nhập nhầm số lượng, nhập nhầm tỷ giá hoặc hạch toán thiếu, hạch toán thừa v.v tránh gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Thứ hai, hoạt động kinh doanh ngoại hối đòi hỏi phải được quản trị một cách tức thời. Ban Giám đốc và những cán bộ quản trị rủi ro cần phải biết tình trạng kinh doanh vào bất cứ thời điểm nào chứ không thể chờ đợi đến cuối ngày giao dịch hoặc cuối tháng giao dịch mới biết. Hiện tại, hệ thống hạch toán kế toán của Sở quản lý chỉ cho phép hiển thị kết quả kinh doanh lãi lỗ hàng tháng. Theo chuẩn mực quản trị rủi ro quốc tế, việc đánh giá kết quả kinh doanh hàng tháng là quá trễ và không đảm bảo an toàn. Hơn nữa, việc không được hỗ trợ bởi hệ thống phần mềm hữu hiệu khiến cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Sở giao dịch rất lạc hậu, lãng phí nguồn nhân lực cũng như lãng phí về tài chính. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ thường gắn liền với những báo cáo phát sinh (báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo doanh số với đối tác, báo cáo trạng thái ngoại tệ, báo cáo biến động tỷ giá v.v). Hiện tại, việc thực hiện báo cáo thường được cán bộ phòng Kinh doanh ngoại tệ thực hiện thủ công bằng cách sử dụng những phần mềm văn phòng của Microsoft như Word, Excel.

Bên cạnh đó, các cán bộ thực hiện hoạt động KDNT tại Sở giao dịch cần biết và quan tâm đến một công cụ hiệu quả nữa để phòng chống rủi ro đó là phương pháp đặt lệnh giao dịch trên thị trường liên ngân hàng. Phương pháp này giúp phòng tránh hữu hiệu nguy cơ vượt những hạn mức được phép trong kinh doanh ngoại tệ. Để có thể đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ, giao dịch viên nên chú trọng vào những loại lệnh sau:

  • Lệnh ngừng lỗ hoặc lệnh hiện thực hoá lợi nhuận: (stop-loss order or take

profit order) lệnh này cho phép thực hiện mua hoặc bán một số lượng ngoại tệ ở một tỷ giá nhất định với mục đích là cắt lỗ hoặc để hiện thực hoá phần lãi có được trong kinh doanh ngoại tệ.

  • Lệnh có hiệu lực đến khi huỷ (good till cancel order): lệnh này sẽ có hiệu lực cho đến khi bên đặt lệnh yêu cầu được huỷ
  • Lệnh có hiệu lực đến một thời điểm nhất định (good till specified time order): lệnh này có hiệu lực đến một thời điểm nhất định đã được quy định trước ở trong lệnh.
  • Lệnh thực hiện một trong hai giao dịch (one cancel another order): Lệnh này thường sử dụng khi giao dịch viên vừa muốn chặn lỗ vừa muốn hiện thực hoá lợi nhuận. Có nghĩa là nếu tỷ giá biến động có lợi thì thực hiện cân bằng trạng thái để thu lợi nhuận ở một mức giá và ngược lại nếu tỷ giá biến động bất lợi thì sẽ thực hiện cắt lỗ để tránh bị lỗ vượt hạn mức. Khi đã xảy ra giao dịch thì lệnh sẽ tự động huỷ vế kia của lệnh.

Cuối cùng, việc cung cấp và quản lý hạn mức cũng là một công cụ hiệu quả trong việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro. Để có thể xác định được hạn mức trạng thái cũng như hạn mức ngừng lỗ hiệu quả cần phải căn cứ vào năng lực và kinh nghiệm của từng giao dịch viên.. Hạn mức cần được điều chỉnh theo kết quả kinh doanh thực tế của giao dịch viên này bởi vì năng lực của một giao dịch viên là một yếu tố không thể định lượng. Có thể hiểu và tạo ra một sân chơi xứng đáng với từng giao dịch viên chính là cái tài của người lãnh đạo.

3.2.3.4. NHNo&PTNT VN cần mở rộng và liên kết các nghiệp vụ có liên quan tới hoạt động kinh doanh ngoại tệ

Trong một NHTM, các hoạt động kinh doanh thường có liên quan, tác động tới nhau theo nhiều cách thức và phương diện. Hoạt động này phát triển sẽ tạo điều kiện thúc đẩy các hoạt động khác phát triển theo. Hoạt động KDNT có liên quan trực tiếp và mật thiết hoạt động Thanh toán quốc tế và hoạt động huy động và cho vay ngoại tệ. Bên cạnh đó cũng có một số hoạt động khác có thể tận dụng để tạo điều kiện cho hoạt động KDNT phát triển như hoạt động kiều hối.

a/ Đối với hoạt động Thanh toán quốc tế:

  • Có chính sách thu hút khách hàng một cách hợp lý: Tiếp tục tìm cách duy trì với những khách hàng lớn, đang có quan hệ thường xuyên, tạo cho họ những ưu đãi như: cho mức ký quỹ thấp, tư vấn miễn phí cho khách hàng về các phương thức giao dịch và thanh toán có lợi cho họ, thực hiện những mức phí ưu đãi cho các khách hàng có cam kết sử dụng dịch vụ lâu dài của ngân hàng.
  • Đối với những khách hàng có nguồn thu ngoại tệ lớn, cần tạo nhiều ưu đãi, hoặc tìm hiểu nhu cầu, nguyện vọng của khách hàng để đáp ứng, từ đó thúc đẩy việc những khách hàng này bán lại ngoại tệ cho ngân hàng, tạo nguồn cung ngoại tệ dồi dào hơn.
  • Đơn giản hóa các quy trình thủ tục, tạo điều kiện thuận lợi và nhanh chóng nhất cho các khách hàng trong việc thực hiện nghiệp vụ này, đồng thời thu hút được những khách hàng mới.

b/ Hoạt động huy động và cho vay ngoại tệ:

  • Nghiệp vụ huy động vốn ngoại tệ tạo ra nguồn cung cấp vốn ngoại tệ cho

hoạt động KDNT, do vậy các chi nhánh cần phải tiếp tục thu hút các nguồn ngoại tệ còn chưa được sử dụng trong dân cư và các doanh nghiệp bằng việc thực hiện lãi suất cạnh tranh (có các chương trình gửi tiết kiệm quy từ ngoại tệ ra VND với tỷ giá ưu đãi …), tích cực đẩy mạnh quảng cáo, tiếp thị…

  • Đối với nghiệp vụ cho vay ngoại tệ: tiếp tục phát triển vững chắc thị phần tín dụng bằng cách nâng cao công tác thẩm định khách hàng, thu hút thêm khách hàng bằng cách mở rộng tiện ích như tư vấn miễn phí về các hoạt động kinh doanh có liên quan tới khoản vốn được vay, đề xuất các kế hoạch trả nợ phù hợp nhất với khách hàng…

c/ Hoạt động kiều hối:

  • Thực hiện mức phí chuyển tiền và tỷ giá cạnh tranh, có thoả thuận đối với những đối tượng thường xuyên chuyển tiền và có nhu cầu bán ngoại tệ cho các chi nhánh;
  • Tăng cường công tác thông tin, hướng dẫn chi tiết cho khách hàng khi mở tài khoản, chuyển tiền, nhận tiền; phải có hướng dẫn cụ thể, chi tiết từng loại hình dịch vụ kiều hối (thủ tục chuyển, lĩnh ngoại tệ);
  • Các chi nhánh nên có biện pháp khuyến khích người nhận bán lại hoặc gửi vào tài khoản của ngân hàng.

3.2.3.5. NHNo&PTNT VN cần chú ý công tác hoàn thiện quy trình thủ tục KDNT và ban hành các băn bản hướng dẫn thực hiện quy trình

Một số văn bản quy định về ngoại hối của NHNo&PTNT Việt Nam được ban hành từ cách đây nhiều năm và không còn phát huy tác dụng trong điều kiện thị trường ngoại hối biến động như hiện nay.

Thứ nhất, văn bản 2008/NHNo-QHQT quy định về chênh lệch giữa giá mua với giá bán giữa Sở giao dịch với các chi nhánh ở mức nhất định. Điều này là không đúng theo những nguyên tắc yết giá cơ bản. Phần chênh lệch giá giữa giá mua và giá bán thường phụ thuộc vào tính thông dụng của một đồng tiền và độ biến động của đồng tiền đó. Những đồng tiền thông dụng và phổ biến, được giao dịch rộng rãi như USD hay EUR thường có độ chênh lệch giữa giá mua và giá bán rất thấp. Ngược lại, những đồng tiền ít được giao dịch như THB (đồng bạt Thái Lan) hoặc đồng NOK (Krone Na Uy) thường có độ chênh giá lớn hơn nhiều. Ngay đối với USD và EUR vào những thời điểm biến động mạnh, chênh lệch giữa hai mức giá này cũng được các NHTM kéo rộng hơn. Vì thế việc quy định bắt buộc Sở giao dịch phải yết phần chênh lệch giá này cố định sẽ gây ra ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh của toàn hệ thống.

Văn bản tiếp theo có thể thấy cũng có nhiều bất cập đó là văn bản 4496/NHNo-KHTH có quy định những biện pháp khen thưởng đối với những chi nhánh thu hút được nguồn ngoại tệ về cho NHNo&PTNT VN nhưng lại không quy định về việc khen thưởng những chi nhánh bán ngoại tệ. Với văn bản này có thể thấy rằng NHNo&PTNT VN mới chỉ tập trung vào việc thu hút ngoại tệ để đáp ứng cho nhu cầu của toàn hệ thống tại những thời điểm thiếu hụt ngoại tệ. Tuy vậy hiện nay thị trường ngoại hối biến đổi ngày càng phức tạpcân bằng giữa cung ngoại tệ và cầu ngoại tệ thường không cân đối, có lúc nghiêng về phía cung có lúc lại nghiêng về phía cầu dẫn đến việc các NHTM cũng bị dư thừa hoặc thiếu hụt ngoại tệ theo thời điểm. Như vậy có thể thấy tại thời điểm dư thừa ngoại tệ, việc khen thưởng động viên cần tập trung khuyến khích vào các chi nhánh bán được ngoại tệ. Như vậy có thể thấy văn bàn nói trên chưa thực sự được linh hoạt và hợp lý tại tất cả các thời điểm. Do vậy đối với văn bản liên quan đến cơ chế khen thưởng cần được xem

xét và điều tiết một cách linh hoạt, phù hợp với xu thế của thị trường ngoại hối lúc đó.

Bên cạnh đó NHNo&PTNT VN cần ban hành ngay một quy trình chung cho việc thực hiện hoạt động KDNT trên toàn hệ thống nhằm giảm rủi ro trong kinh doanh và tạo điều kiện thuận lợi cho các chi nhánh khi thực hiện giao dịch.

NHNo&PTNT VN cũng cần nhanh chóng nghiên cứu phương án ký kết hợp đồng khung các sản phẩm phái sinh ISDA để tạo tiền để triển khai các sản phẩm mới trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ của hệ thống.

Cuối cùng, việc quy định về tập trung hóa hoạt động KDNT tại Sở giao dịch chưa được thực hiện triệt để. Một số chi nhánh NHNo&PTNT VN đang mở tài khoản ngoại tệ tại một số TCTD khác, do đó việc điều hòa vốn cũng như điều hòa ngoại tệ của Trụ sở chính sẽ khó có thể đạt độ chính xác. Cần thiết phải có quy định thống nhất không cho phép các chi nhánh được phân tán tài khoản như vậy và toàn bộ phải tập trung tại Sở quản lý.

3.2.4. Nhóm giải pháp khác

3.2.4.1. NHNo&PTNT VN cần thực hiện hoạt động Marketing ngân hàng một cách có chủ động và hiệu quả

Để thực hiện tốt bất kỳ hoạt động kinh doanh nào thì việc marketing và quảng bá là điều hết sức cần thiết. Với mục tiêu thực hiện được các hoạt động KDNT mới (trong tương lai NHNo&PTNT VN đang cố gắng hết sức để đưa sản phẩm KDNT quyền chọn vào sử dụng) thì việc quảng bá lại càng cần thiết hơn nữa. Trước hết, NHNo&PTNT VN nên lựa chọn một vài chi nhánh lớn, đã thực hiện tốt hoạt động KDNT từ trước tới nay để áp dụng sản phẩm mới này. Sau đó, các chi nhánh cần chủ động tổ chức các cuộc hội nghị với những khách hàng lớn, tiềm năng để giới thiệu sản phẩm này một cách chi tiết và cụ thể hoặc giới thiệu sản phẩm thông qua những tờ rơi được thiết kế gọn nhẹ, dễ hiểu, bắt mắt để bất cứ khách hàng nào đến giao dịch tại chi nhánh cũng có thể đọc và có các thông tin cần thiết.

Bên cạnh đó, đối với những hoạt động KDNT mà hiện nay NHNo&PTNT VN đang áp dụng và thực hiện, NHNo&PTNT VN cần có chiến lược quảng bá và tư vấn cho khách hàng nhiều hơn nữa để khách hàng được biết và sử dụng.

3.2.4.2. NHNo&PTNT VN cần xây dựng một chính sách khách hàng linh hoạt, đúng đắn

Khách hàng luôn là đối tượng hàng đầu cần được quan tâm vì mục đích cuối cùng của các ngân hàng đều là thu hút được các khách hàng sử dụng các sản phẩm, dịch vụ của mình, từ đó tăng thêm nguồn thu nhập cho ngân hàng. Do đó chính sách khách hàng luôn đóng một vai trò hết sức quan trọng trong toàn bộ hoạt động kinh doanh nói chung và kể cả hoạt dộng KDNT nói riêng của một ngân hàng.

Trong cuộc cạnh tranh ngày một gay gắt giữa các NHTM đang diễn ra hiện nay, việc có một chính sách khách hàng thật linh hoạt và đúng đắn chính là chìa khóa thành công cho các ngân hàng để giữ được thị phần trên thị trường hoạt động kinh doanh ngoại tệ.

Điều đầu tiên trong chính sách này đó là cần giữ vững và duy trì với những khách hàng quen thuộc. Hiện nay, các ngân hàng đều ra sức cạnh tranh và thu hút khách hàng về phía mình, do vậy trước tiên bản thân NHNo cần phải giữ vững mối quan hệ với các khách hàng truyền thống bằng những chế độ chăm sóc và đãi ngộ đặc biệt, bằng cách hiểu được nhu cầu của khách hàng và tìm cách đáp ứng nhu cầu đó.

Tiếp theo đó là việc các chi nhánh của NHNo &PTNT VN cần chủ động đi tìm kiếm khách hàng. Điều này là hết sức cần thiết vì hoạt động này sẽ giúp mở rộng hoạt động và nâng cao số lượng khách hàng đến với mình. Từ trước đến nay, NHNo&PTNT VN vẫn luôn tự hào giữ vị trí số 1 về tổng tài sản trong số 4 ngân hàng thương mại lớn trên cả nước. Tuy vậy, trước xu thế như hiện nay, các cán bộ NHNo&PTNT VN không thể chủ động ngồi chờ khách hàng đến với mình mà cần tìm kiếm và kéo họ về phía mình. Đặc biệt, đối với hoạt động KDNT, các chi nhánh cần chú ý đến các doanh nghiệp xuất nhập khẩu , thu hút họ với những chính sách ưu đãi và những sản phẩm tiện ích vì đây chính là nguồn thu và đồng thời cũng là nguồn bán ngoại tệ rất tốt mà ngân hàng có thể tận dụng. Đặc biệt cũng có thể lưu ý đến những công ty XNK mới thành lập, đối tượng này có thể mang lại nguồn lợi nhuận chưa cao vì những giao dịch của họ thường nhỏ nhưng đây lại là những đối tượng mới chưa được chú ý đến nhiều. Để tận dụng được tiềm năng của những đối

tượng này cần có một đội ngũ phân tích khách hàng giỏi để nhận biết đâu là công ty tiềm năng để có chính sách thu hút hợp lý với những đãi ngộ đặc biệt thu hút được những đối tượng này.

Cuối cùng cần có chính sách giá cả hấp dẫn đối với từng nhóm khách hàng. Trong môi trường cạnh tranh như hiện nay, cần có một chính sách giá cả linh hoạt tùy thuộc từng đối tượng khách hàng để thu hút họ nhiều hơn. Chính sách này cần được thực hiện phù hợp trên cơ sở cân đối chi phí, lợi nhuận, thị phần và các mục tiêu khác tùy thuộc vào từng chi nhánh. Do đó, tỷ giá trong hoạt động KDNT cũng không nên gò bó mà cũng cần linh hoạt và phù hợp với cung cầu ngoại tệ trên thị trường từng thời kỳ và vẫn đảm bảo kinh doanh có lãi cho ngân hàng. Tỷ giá có thể được đưa ra phù hợp với từng đối tượng khách hàng, từng loại hình dịch vụ, từng thời điểm để vừa có thể duy trì với đối tượng khách hàng cũ vừa thu hút được đối tượng khách hàng mới. Để thực hiện được việc này các chi nhánh cần phải có tiêu chí để phân loại các nhóm khách hàng, đối với những nhóm khách hàng lớn có thể được hưởng nhiều ưu đãi như tỷ giá thấp, ưu tiên cũng cấp ngoại tệ khi thị trường khan hiếm, giảm tỷ lệ ký quỹ…

3.3. Một số kiến nghị với NHNN về việc tạo môi trường pháp lý hoàn thiện cũng như điều chỉnh một số cơ chế chính sách có liên quan đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ

3.3.1. Nhà nước cần thực hiện chính sách tỷ giá thả nổi có điều tiết phù hợp

Trong hoạt động KDNT , một trong những vấn đề được quan tâm nhiều nhất đó là chế độ tỷ giá của NHNo, vì chế độ tỷ giá này sẽ ảnh hưởng rất lớn tới tỷ giá giao dịch trên thị trường (Trong luận văn này, tác giả chủ yếu chỉ để cập phân tích đến chế độ tỷ giá USD/VND vì đây là tỷ giá được quan tâm nhiều nhất và hoạt động KDNT thực hiện với USD chiếm một tỷ lệ cao nhất). Trên lý thuyết có ba loại chế độ tỷ giá đó là: chế độ tỷ giá thả nổi, chế độ tỷ giá cố định và chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết. Hiện nay, tại Việt Nam đang sử dụng chế độ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của NHNN. Mặc dù để tỷ giá tự điều chỉnh phù hợp với nhu cầu của thị trường tuy vậy NHNN sẽ trực tiếp can thiệp để điều chỉnh tỷ giá khi thấy những biến động lớn trong tỷ giá sẽ gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế. Tuy vậy, có những giai đoạn,

NHNN đã quản lý và can thiệp quá sâu vào tỷ giá khiến chế độ tỷ giá này mất đi sự linh hoạt cần có của nó. Điều này được thể hiện qua việc từ thời điểm trước tháng 12/2007, NHNN hầu như điều chỉnh tỷ giá theo hướng tăng liên tục, điều này có nghĩa là NHNN đã gián tiếp hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Như vậy có thể thấy rằng, trong thời gian đó sự can thiệp của NHNN là quá nhiều, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động KDNT. Tuy vậy, vấn đề gì cũng có hai mặt. Nếu bây giờ NHNN để thả nổi tỷ giá mà không tham gia điều tiết thì sẽ gây ra những cú sốc với một nền kinh tế còn đang phát triển và còn có nhiều yếu tố chưa bền vững như Việt Nam hiện nay.

Do đó, cách hợp lý nhất là NHNN có thể từ từ thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt phù hợp với các điều kiện phát triển của thị trường theo từng thời kỳ. NHNN có thể thực hiện bằng cách nới rộng biên độ giao động của tỷ giá. Trên thực tế nếu như trước kia biên độ này để ở mức rất thấp là ,25% thì đến tháng 03/2008 biên độ này đã được nới rộng lên mức 1%, đến 26/11/2009 mức biên độ này đã được nới rộng lên mức 3%, và thời gian vừa qua vào ngày 11/2/2011, biên độ tỷ giá bị thu hẹp xuống còn 1% sau khi tỷ giá liên ngân hàng được chính thức nâng lên mức 20-693 đồng/USD (tăng lên 9,3%). Có thể thấy rằng thời gian vừa qua tỷ giá đã được NHNN điều chỉnh một cách linh hoạt và phù hợp với thị trường hơn. Việc biên độ tỷ giá được nới rộng hơn so với biên độ tỷ giá cũng cho biết tỷ giá có khả năng biến động lớn nên buộc các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải quan tâm tới việc bảo hiểm rủi ro tỷ giá và như vậy thì các sản phẩm như hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng quyền chọn ngoại tệ hay hợp đồng hoán đổi ngoại tệ của các ngân hàng cũng sẽ có cơ hội phát triển mạnh hơn. Đồng thời việc nới rộng biên độ giao dịch cũng sẽ khiến cho các ngân hàng chủ động hơn trong việc niêm yết tỷ giá một cách hợp lý, tạo môi trường cạnh tranh công bằng cho các ngân hàng. Tuy vậy việc để mức biên độ như hiện nay cũng chưa thật kích thích hoạt động KDNT. NHNN cần có biện pháp điều chỉnh và công bố tỷ giá linh hoạt hơn, cần theo sát hơn với tỷ giá trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng để thu hẹp đáng kể chênh lệch tỷ giá giao dịch của các ngân hàng với tỷ giá trên thị trường tự do. Cần xem xét tiếp tục nới rộng biên độ này ở mức cho phép để vừa có thể quản lý thị trường với tư cách là người mua bán cuối cùng, vừa tạo điều kiện cho các ngân hàng yết giá cạnh tranh, làm cho

thị trường sôi động hơn. Trong dài hạn, tỷ giá nên từng bước được thả nổi theo cung cầu ngoại tệ, hướng tới tự do hóa tỷ giá có sự quản lý vĩ mô của NHNN thông qua các công cụ đòn bẩy kinh tế.

3.3.2. NHNN cần hoàn thiện cơ chế quản lý ngoại hối

NHNN cần tăng cường vai trò kiểm soát của mình đối với các NHTM và các TCTD trong việc thực hiện các quy chế mà NHNN ban hành. Đồng thời NHNN cũng cần nắm bắt các vướng mắc của các ngân hàng để từ đó có những phản ứng kịp thời. Bên cạnh đó, NHNN cũng nên giao quyền chủ động hơn nữa cho các NHTM trong nước trong lĩnh vực KDNT, nhất là trong điều kiện cạnh tranh mạnh mẽ với các tập đoàn tài chính quốc tế.

Để hoàn thiện cơ chế quản lý ngoại hối, một trong những nhân tố không thể thiếu đó là NHNN cần phải có những biện pháp để tăng dự trữ ngoại hối. Bởi lẽ, để thực hiện một chính sách tỷ giá thả nổi có điều tiết hợp lý từ NHNN thì điều cần thiết là NHNN cần phải nắm giữ một lượng ngoại hốicđủ để thực hiện việc can thiệp khi cần thiết. Quản lý dự trữ ngoại hối tốt cũng sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường ngoại hối. Trong thời gian qua, dữ trữ ngoại hối của Việt Nam đã tăng một cách đáng kể cho thấy nền kinh tế của Việt Nam đang phát triển khá khả quan. Tuy vậy, thực trạng quản lý dư trữ ngoại hối của Việt Nam cũng đang có một số bất cập như: hành lang pháp lý cho hoạt động dự trữ ngoại hối còn bộc lộ nhiều bất cập về tổ chức và thực hiện quản lý dự trữ ngoại hối, về nghiệp vụ kiểm soát, quản lý nội bộ hoạt động dự trữ ngoại hối, chiến lược quản lý dự trữ ngoại hối vẫn thụ động, hoạt động đầu tư dự trũ đơn điệu, cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin còn nhiều hạn chế, thiếu cán bộ có trình độ và kinh nghiệm. Để khắc phục và hoàn thiện tình hình dự trữ ngoại hối có thể thực hiện một số điều như: sửa đổi, bổ sung quy định quản lý dự trữ ngoại hối, hoàn thiện chức năng nhiệm vụ của các cấp quản lý dự trữ ngoại hối, tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và hạn tầng , hình thành các quỹ dự trữ ngoại hối theo chức năng và xây dựng cơ cấu ngoại tệ và cơ cấu đầu tưu dự trữ ngoai hối cho từng quỹ, tăng cưởng đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, tăng cườg công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ…

3.3.3. NHNN cần xây dựng các văn bản pháp qui để hướng dẫn các NHTM thực hiện nghiệp vụ KDNT

NHNN cần có các văn bản pháp quy, hướng dẫn nhằm giúp cho thị trường công cụ phái sinh có cơ sở để nhanh chóng đi vào hoạt động và phát triển. Cần nhanh chóng nghiên cứu và ban hành đồng bộ kịp thời các văn bản pháp quy về nghiệp vụ phái sinh và tạo môi trường pháp lý, khung pháp lý là cơ sở quan trọng nhất để tạo nên những rào chắn bảo vệ sự lành mạnh của thị trường tài chính. Có như vậy NHTM mới có điều kiện tham gia vào thị trường để phòng ngừa rủi ro cho mình và góp phần thúc đẩy công cụ này phát triển thông qua việc cung cấp dịch vụ về các công cụ này cho khách hàng.

Bên cạnh đó, hiện nay có một số điều luật điều chỉnh hoạt động KDNT và thị trường ngoại hối nói chung còn mang tính bắt buộc, thiếu tính sáng tạo và nhiều kẽ hở và đôi khi có những quy định còn không phù hợp với thời điểm thị trường lúc đó. Do vậy, NHNN cần nghiên cứu thị trường vào từng thời điểm phù hợp và việc áp dụng nguồn luật hiện thời còn phù hợp hay không để có thể kịp thời sửa đổi vì sự phát triển chung của thị trường ngoại hối. NHNN cũng nên sửa đổi các văn bản luật về kinh doanh ngoại hối hiện hành theo hướng dần dần tự do hóa thị trường ngoại hối, giảm những can thiệp mang tính áp dặt của nhà nước hay NHNN vào tỷ giá hay vào các ngân hàng.

KẾT LUẬN

Mặc dù hoạt động KDNT hiện nay vẫn còn khá mới mẻ đồng thời các nghiệp vụ thực hiện còn khá đơn giản, tuy vậy trong tương lai gần hoạt đồng này đang trở nên ngày càng thu hút sự quan tâm và chú ý từ các NHTM bởi hiệu quả mà hoạt động này mang lai có thể tác động khá lớn đến các ngân hàng. Nếu hoạt động KDNT không hiệu quả có thể dẫn tới việc các ngân hàng mất khả năng thanh khoản, suy giảm khả năng tài chính và dẫn đến việc mất uy tín hoặc phá sản của ngân hàng. Hoạt động KDNT tại NHNo&PTNT VN trong thời gian qua từ những bước khởi đầu bỡ ngỡ, dần dần đã có những dấu hiệu tích cực và đem lại kết quả kinh, Tuy nhiên, các nghiệp vụ KDNT vẫn còn chưa phát triển, chưa tương xứng với tiềm năng và vị thế của ngân hàng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt về lĩnh vực ngân hàng hiện đại. Vì vậy, nghiên cứu các giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động KDNT có ý nghĩa không chỉ đáp ứng nhu cầu trước mắt mà còn có ý nghĩa lâu dài. Trên cơ sở đó, luận văn với đề tài “Nâng cao hiệu quả hoạt

động kinh doanh ngoại tệ tại NHNo&PTNT Việt Nam” sử dụng phương pháp nghiên cứu thích hợp đã hoàn thành những nội dung chủ yếu sau:

Thứ nhất: Làm rõ đặc điểm của hoạt động KDNT và các tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động KDNT của NHTM, đồng thời phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động KDNT.

Thứ hai: Phân tích, đánh giá tình hình hoạt động KDNT tại NHNo&PTNT VN một cách khách quan, trung thực, đưa ra những bất cập và nguyên nhân của những bất cập đó. Qua đó, tác giả đi vào phân tích hiệu quả hoạt động KDNT của NHNo&PTNT VN thông qua những tiêu chí đánh giá đã được đề ra tại chương 1.

Thứ ba: Trên cơ sở phân tích một số thách thức cũng như khó khăn mà NHNo&PTNT VN đã, đang và sẽ phải đối mặt, tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động KDNT tại NHNo&PTNT VN.

Nâng cao hiệu quả hoạt động Kinh doanh ngoại tệ tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam là mối quan tâm của rất nhiều các phòng ban trong hệ thống NHNo&PTNT VN. Bản thân người viết khi thực hiện đề tài này cũng đã thu thập thêm được khá nhiều kiến thức mới trong hoạt động này, đồng thời

cũng góp một phần tiếng nói kiến nghị với NHNo&PTNT VN trong việc nâng cao hiệu quả của hoạt động KDNT.

Tuy nhiên, hoạt động KDNT của ngân hàng là một lĩnh vực rộng và phức tạp, với sự hiểu biết và thời gian hạn chế nên tác giả không thể tránh khỏi được những sai sót. Kính mong Hội đồng khoa học, nhà quản trị ngân hàng và bạn đọc quan tâm đến vấn đề này đóng góp ý kiến để tác giả có điều kiện hoàn thành luận văn tốt hơn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I/ Tài liệu tiếng Việt:

1/GS.TS Vũ Văn Hóa và PGS.TS.Lê Văn Hưng, Giáo trình Tài chính quốc tế, NXB Thống Kê, 2009.

2/PGS.TS.Nguyễn Văn Tiến, Cẩm nang Thị trường Ngoại hối, NXB Thống kê, 2006.

3/PGS.TS Nguyễn Văn Tiến, Giáo trình Quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng,, Học viện ngân hàng, 2006.

4/TS. Lê Văn Tề, Kinh doanh ngoại hối và xác định tỷ giá, NXB Thống kê, Hà Nội,2002.

5/ PGS.TS Phan Thị Thu Hà, Giáo trình Ngân hàng thương mại, NXB Thống kê, 2006.

6/ PGS.TS Nguyễn Thị Mùi, Quản trị ngân hàng thương mại, NXB Tài chính, 2006.

7/ Dương Hữu Hạnh, Thanh toán quốc tế và hối đoái, NXB Thống kê, 2005.

8/TS. Đỗ Linh Hiệp, Thanh toán quốc tế- Tài trợ ngoại thương và Kinh doanh ngoại hối, NXB Thống kê, 1999.

9/Luật các Tổ chức Tín dụng 2010.

10/Pháp lệnh ngoại hối.

11/Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT VN.

12/Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch NHNo&PTNT VN.

II/ Tài liệu tiếng Anh:

1 Boris Schlossberg, Technical Analysis of the currency Market, John Wiley & Sons, Inc, 2006.

2 Mishkin, The Economics of Money, Banking, and Financial Market, Columbia University, 2005.

3/Shanni Shamah, Foreign Exchange Prime, Wiley Finance,2003.

III/ Tài liệu từ Internet:

1/Nguyên Tổng giám đốc NHNo Nguyễn Thế Bình, Diễn văn kỷ niệm 20 năm thành lập của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, website: http://www.vbard.com, ngày 25/04/2010.

2/    Mỹ     Hạnh,       Sản     xuất    dệt     may-     Nhiều     khó     khăn    mới,       website:

http://www.sggp.org.vn/, ngày 18/07/2011.

3/Khoa   Việt,    Thế   giới   vẫn   chưa   thoát   khỏi   mê   cung   suy   thoái,    website:

http://www.baomoi.com, ngày 05/10/2010.

4/Sơn Nghĩa, Doanh nghiệp xuất khẩu lo 6 tháng cuối năm, Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online, website:thesaigontimes.vn, ngày 16/07/2011.

5/Website: www.thuongmai.vn

6/Website: www.agribank.com

7/Website: www.sbv.gov.vn


Tải xuống tài liệu học tập PDF miễn phí

[sociallocker id=”19555″] Tải Xuống Tại Đây [/sociallocker]

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here