Cảm nhận về bài thơ Tỏ Lòng

0
949
Cảm nhận về bài thơ Tỏ Lòng
QUẢNG CÁO
Vài Phút Quảng Cáo Sản Phẩm


Cảm nhận về bài thơ Tỏ Lòng

Mọi ý kiến đóng góp xin gửi vào hòm thư: [email protected]

Tổng hợp các đề cương đại học hiện có của Đại Học Hàng HảiĐề Cương VIMARU 

Kéo xuống để Tải ngay đề cương bản PDF đầy đủ: Sau “mục lục” và “bản xem trước”

(Nếu là đề cương nhiều công thức nên mọi người nên tải về để xem tránh mất công thức)

Đề cương liên quan: Cách làm bài văn lập luận giải thích


Mục Lục

Quảng Cáo

Tải ngay đề cương bản PDF tại đây: Cảm nhận về bài thơ Tỏ Lòng

Cảm nhận về bài thơ “Tỏ Lòng”

 

BÀI LÀM

Triều đại nhà Trần (1226-1400) là một mốc son chói lọi trong 4000 năm dựng nước và

 

 

giữ nước của lịch sử dân tộc ta. Ba lần kháng chiến và đánh thắng quân xâm lược Nguyên

 

 

– Mông, nhà Trần đã ghi vào pho sử vàng Đại Việt những chiến công Chương Dương,

 

 

Hàm Tử, Bạch Đằng… bất tử.

 

 

 

 

 

Khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta và tướng sĩ đời Trần được các sử gia ngợi

 

 

ca là “Hào khí Đông A”. Thơ văn đời Trần là tiếng nói của những anh hùng – thi sĩ dào

 

 

dạt cảm hứng yêu nước mãnh liệt. “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, “Thuật hoài” (

 

 

Tỏ lòng ) của Phạm Ngũ Lão, “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu.v.v… là

 

 

những kiệt tác chứa chan tình yêu nước và niềm tự hào dân tộc.

 

 

 

 

 

Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một danh tướng đời Trần, trăm trận trăm thắng, văn võ

 

 

toàn tài. Tác phẩm của ông chỉ còn lại hai bài thơ chữ Hán: “Thuật hoài” và “Vãn

 

 

Thượng tướng Quốc công Hưng Đạo Đại vương”.

 

 

 

 

 

 

Bài thơ “Tỏ lòng” thể hiện niềm tự hào về chí nam nhi và khát vọng chiến công của

 

người anh hùng khi Tổ quốc bị xâm lăng. Nó là bức chân dung tự hoạ của danh tướng

 

 

Phạm Ngũ Lão.

 

 

 

Hoành sóc giang san kháp kỉ thu

 

 

 

 

 

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

 

 

 

 

 

Nam nhi vị liễu công danh trái

 

 

 

 

 

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.

 

 

 

Cầm ngang ngọn giáo (hoành sóc) là một tư thế chiến đấu vô cùng hiên ngang dũng

 

 

mãnh. Câu thơ “Hoàng sóc giang sơn kháp kỷ thu” là một câu thơ có hình tượng kỳ vĩ,

 

 

tráng lệ, vừa mang tầm vóc không gian (giang sơn) vừa mang kích thước thời gian chiều

 

 

dài lịch sử (kháp kỷ thu). Nó thể hiện tư thế người chiến sĩ thuở “bình Nguyên” ra trận

 

 

hiên ngang, hào hùng như các dũng sĩ trong huyền thoại. Chủ nghĩa yêu nước được biểu

 

 

hiện qua một vần thơ cổ kính trang nghiêm: cầm ngang ngọn giáo, xông pha trận mạc

 

 

suốt mấy mùa thu để bảo vệ giang sơn yêu quý.

 

Đội quân “Sát Thát” ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp (ba quân) với sức mạnh phi

 

 

thường, mạnh như hổ báo (tỳ hổ) quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Khí thế của đội

 

 

quân ấy ào ào ra trận. Không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể ngăn cản nổi. “Khí thôn

 

 

Ngưu” nghĩa là khí thế, tráng chí nuốt sao Ngưu, làm át, làm lu mờ sao Ngưu trên bầu

 

 

trời. Hoặc có thể hiểu : ba quân thế mạnh nuốt trôi trâu. Biện pháp tu từ thậm xưng sáng

 

 

tạo nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hoành tráng, vũ trụ: “Tam quân tì hổ khí thôn

 

 

Ngưu”. Hình ảnh ẩn dụ so sánh: “Tam quân tì hổ…” trong thơ Phạm Ngũ Lão rất độc

 

 

đáo, không chỉ có sức biểu hiện sâu sắc sức mạnh vô địch của đội quân “Sát Thát” đánh

 

 

đâu thắng đấy mà nó còn khơi nguồn cảm hứng thơ ca; tồn tại như một điển tích, một thi

 

 

liệu sáng giá trong nền văn học dân tộc:

 

 

 

 

 

-“Thuyền bè muôn đội;

 

 

 

 

 

Tinh kỳ phấp phới

 

 

 

 

 

 

Tỳ hổ ba quân, giáo gươm sáng chói…”

 

(Bạch Đằng giang

 

 

phú)

 

 

 

 

 

Người chiến sĩ “bình Nguyên” mang theo một ước mơ cháy bỏng: khao khát lập

 

 

chiến công để đền ơn vua, báo nợ nước. Thời đại anh hùng mới có khát vọng anh hùng!

 

 

“Phá cường địch, báo hoàng ân” (Trần Quốc Toản) – “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin

 

 

bệ hạ đừng lo” (Trần Thủ Độ). “…Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác

 

 

này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng” (Trần Quốc Tuấn)… Khát vọng ấy là biểu hiện

 

 

rực rỡ những tấm lòng trung quân ái quốc của tướng sĩ, khi tầng lớp quý tộc đời Trần

 

 

trong xu thế đi lên đang gánh vác sứ mệnh lịch sử trọng đại. Họ mơ ước và tự hào về

 

 

những chiến tích hiển hách, về những võ công oanh liệt của mình có thể sánh ngang tầm

 

 

sự nghiệp anh hùng của Vũ Hầu Gia Cát Lượng thời Tam Quốc. Hai câu cuối sử dụng

 

 

một điển tích (Vũ Hầu) để nói về nợ công danh của nam nhi thời loạn lạc, giặc giã:

 

 

 

“Công danh nam tử còn vương nợ

 

 

 

 

 

 

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”

 

 

 

 

“công danh” mà Phạm Ngũ Lão nói đến trong bài thơ là thứ công danh được làm

 

 

nên bằng máu và tài thao lược, bằng tinh thần quả cảm và chiến công. Đó không phải là

 

 

thứ “công danh” tầm thường, đậm màu sắc anh hùng cá nhân. Nợ công danh như một

 

 

gánh nặng mà kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng xương máu và lòng dũng cảm.

 

 

Không chỉ “Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”, mà tướng sĩ còn học tập binh thư, rèn

 

 

luyện cung tên chiến mã, sẵn sàng chiến đấu “Khiến cho người người giỏi như Bàng

 

 

Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa Khuyết, làm rữa

 

 

thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai,…” để Tổ quốc Đại Việt được trường tồn bền vững:

 

 

“Non sông nghìn thuở vững âu vàng” (Trần Nhân Tông).

 

 

 

 

 

“Thuật hoài” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Giọng thơ hùng tráng, mạnh

 

 

mẽ. Ngôn ngữ thơ hàm súc, hình tượng kỳ vĩ, tráng lệ, giọng thơ hào hùng, trang nghiêm,

 

 

mang phong vị anh hùng ca. Nó mãi mãi là khúc tráng ca của các anh hùng tướng sĩ đời

 

 

Trần, sáng ngời “hào khí Đông-A”.

 

 

 

 

 

 

 

(Sưu tầm)

 

 


Tải xuống tài liệu học tập PDF miễn phí

Tải Xuống Tại Đây

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here