3 bài văn mẫu Cảm nhận về đoạn trích Lẽ ghét thương của Nguyễn Đình Chiểu

0
757
3 bài văn mẫu Cảm nhận về đoạn trích Lẽ ghét thương của Nguyễn Đình Chiểu
QUẢNG CÁO
Vài Phút Quảng Cáo Sản Phẩm


3 bài văn mẫu Cảm nhận về đoạn trích Lẽ ghét thương của Nguyễn Đình Chiểu

Mọi ý kiến đóng góp xin gửi vào hòm thư: [email protected]

Tổng hợp các bài văn mẫu lớp 11 hiện có của Hỗ Trợ Ôn Tập: Văn mẫu hay nhất lớp 11

Ngoài ra các bạn có thể xem các tài liệu lớp 11 tại đây: Tài Liệu Lớp 11

Bài liên quan: 3 bài văn mẫu Phân tích đoạn trích Lẽ ghét thương trong truyện Lục Vân Tiên

Đề bài: Cảm nhận về đoạn trích Lẽ ghét thương của Nguyễn Đình Chiểu.
Dàn ý mẫu

I. Mở bài
– Trình bày những nét khái quát về tác giả Nguyễn Đình Chiểu và truyện thơ Truyện Lục Vân Tiên
– Trình bày những cảm nhận khái quát nhất của bản thân về đoạn trích Lẽ ghét thương: Nói lên những tình cảm yêu ghét rất phân minh, mãnh liệt và tấm lòng thương dân của Nguyễn Đình Chiểu

II. Thân bài
(Đề bài là cảm nhận nên HS khi làm cần đưa vào bài những cảm nhận của riêng bản thân và lí giải cơ sở cảm nhận đó)
1. Cảm nhận về mối quan hệ giữa ghét và thương
– Mối quan hệ về lẽ yêu ghét được đúc kết ngay trong câu thứ 4 của đoạn trích:
+ “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương” : cội nguồn sự ghét là lòng thương, thương là gốc ⇒ hai tình cảm đối lập nhưng thực chất là sự thống nhất, bổ sung, hỗ trợ cho nhau
⇒ Đây cũng chính là tuyên ngôn về lẽ ghét thương của ông Quán
– Cuối đoạn trích, một lần nữa mối quan hệ khăng khít giữa lẽ ghét và thương lại trở lại:
+ “Nửa phần lại ghét nửa phần lại thương”: Càng yêu thương nhân dân, tiếc thương những người tài đức lại càng căm ghét những kẻ hại dân hại đời.
2. Cảm nhận về lẽ ghét
– Những điều ông Quán ghét: việc tầm phào, ghét Kiệt, Trụ mê dâm, đời U, Lệ đa đoan, ghét đời Ngũ Bá phân vân, đời thúc quý phân băng…
⇒ Thực chất: ghét vua chúa đắm say tửu sắc, tàn bạo bất nhân, ăn chơi hưởng lạc, không chăm lo đến đời sống của dân, để triều đại suy tàn
+ “Ghét đời”: ghét cả một đời, một triều đại, một chính quyền, một xã hội
+ Điệp từ “ghét”: tăng sức mạnh cảm xúc
+ Điệp từ dân: Cơ sở lẽ ghét chính là yêu dâm, lo cho dân
⇒ Tác giả đã đứng về phía nhân dân, xuất phát từ quyền lợi của nhân dân để ghét. Cội nguồn của lẽ ghét chính là lẽ thương

3. Cảm nhận về lẽ thương
– Khi bàn về lẽ ghét, ông Quán thường ghét cả một “đời”, khi bàn về lẽ thương,ông hướng vào những người cụ thể :
+ Thương là thương đức thánh nhân.
+ Thương thầy Nhan tử dở dang.
+ Thương ông Gia Cát tài lành.
+ Thương thầy Đổng tử cao xa.
+ Thương người Nguyên Lượng ngùi.
+ Thương ông Hàn Dũ chẳng may.
+ Thương thầy Liêm, Lạc đã ra.
– Điệp từ “thương”: nhấn mạnh tình cảm đối với những người vì dân vì nước, cả đời bôn ba xuôi ngược, vất vả nhưng sự nghiệp không thành .
⇒ Thương bằng tình cảm chân thành và niềm tiếc nuối
4. Cảm nhận về hình tượng nhân vật ông Quán
– Đây là nhân vật phụ nhưng để lại ấn tượng sâu sắc bởi:
+ Ông Quán xuất hiện đầu đoạn trích cho cảm nhận: thông kinh sử, bộc trực, thẳng thắn, yêu ghét phân minh rõ ràng ⇒ Là biểu trưng cho tính cách Nam bộ và tư tưởng nhà văn
+ Thông qua những lời bàn về lẽ ghét và lẽ thương: tình cảm yêu ghét của ông Quán rõ ràng, dứt khoát, nồng nàn, mãnh liệt. Thương ghét đều chân thành, sắc nhọn mà mộc mạc bình dị ⇒ Tình cảm của con người miền Nam
– Đây là nhân vật Nguyễn Đình Chiều gửi gắm tư tưởng, tình cảm của mình bởi bản thân ông là người nằm trong cảnh ngộ đáng để “thương” Ngoài ra đó còn là sự đồng cảm, kính yêu những vĩ nhân và tiếc thương cho cuộc đời, số phận của bản thân mình.
III. Kết bài
– Khái quát những đặ sắc nghệ thuật làm nên thành công của đoạn trích nói riêng và tác phẩm Truyện Lục Vân Tiên nói chung: lời thơ mộc mạc, chân chất, đạm đà cảm xúc, sử dụng điển tích, điển cố…
– Liên hệ trình bày suy nghĩ bản thân về lẽ ghét thương trong xã hội hiện nay
Bài văn mẫu 1
Nguyễn Đình Chiểu là một trong những tác giả nổi tiếng nhất của văn học Trung đại Việt Nam. Ông để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm nổi bật như: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Chạy giặc,… và không thể không nhắc đến truyện thơ Lục Vân Tiên với trích đoạn Lẽ ghét thương đã in những dấu ấn đậm nét trong lòng bạn đọc suốt bao thế hệ qua.
Đoạn trích Lẽ ghét thương được trích từ câu 473 đến câu 504, kể về sự kiện bốn chàng nho sinh lên kinh dự thi tình cờ gặp nhau trong quán rượu của ông Quán. Trịnh Hâm đã đưa lời thách đố làm thơ để so tài cao thấp, Vân Tiên tỏ ra vượt trội hơn hẳn khiến cho Trịnh Hâm và Bùi Kiệm tỏ ý nghi ngờ tài năng của chàng. Trước tình huống đó, ông Quán đã ra và trò chuyện về lẽ ghét thương ở đời.
Với bốn câu tự giới thiệu hết sức ngắn gọn của ông Quán, người đọc đã có đôi nét thông tin và hiểu về nhân cách đáng kính của ông:
Quán rằng: Kinh sử đã từng
Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa.
Hỏi thời ta phải nói ra,
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương.
Ông Quán cũng như ông Tiều, ông Ngư sống cuộc đời mai danh, ẩn tích, tránh phường danh lợi, hướng đến cuộc sống an nhàn, thư thái trong tâm hồn. Hình ảnh của họ cũng phảng phất hình ảnh của Đồ Chiểu sau khi bị mù trở về quê hương làm nghề dạy học và sáng tác. Bởi vậy, các nhân vật này cũng chính là những người thể hiện và phát ngôn những tư tưởng, quan điểm của tác giả.
Trong câu nói của ông Quán còn thể hiện mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa ghét và thương. Thương và ghét là hai mặt tình cảm trong mỗi con người. Cái người ta thương là những điều tốt đẹp, lay động trái tim, ngược lại họ thường ghét cái xấu xa, độc ác, làm ảnh hưởng xấu đến con người. Như vậy, ghét cũng chính là xuất phát từ lòng thương, bởi vì thương người dân nên mới ghét những điều xấu xa, bạo ngược. Tình cảm này của ông Quán được thể hiện một cách tha thiết chân thành:
“ Quán rằng: ghét việc tầm phào
Ghét cay ghét đắng, ghét vào tận tâm”
“Tầm phào” là những việc vu vơ, hão huyền, không có ý nghĩa. Đó chính là những điều ông Quán ghét. Cái ghét ấy càng được khắc đậm hơn qua việc lặp lại từ “ghét” ba lần theo chiều tăng tiến. Và tám câu thơ tiếp đó là những dẫn chứng cụ thể, trực tiếp để làm rõ những điều mà ông Quán ghét. Ông ghét đời Kiệt Trụ mê dâm, đời U, Lê đa đoạn, Thời Ngũ bá phân vân,… khiến cho người dân phải chịu nhiều cay đắng, khổ cực, chiến tranh khiến biết bao gia đình phải li tán. Dường như trong từng câu thơ người đọc cảm nhận được nỗi phẫn uất cuộn trào trong lòng ông Quán. Qua những lời bộc bạch hết sức chân thành của ông Quán, ta có thể thấy rằng, ông hay chính Nguyễn Đình Chiểu đứng trên lập trường nhân dân, vì dân mà nêu lên quan điểm về lẽ ghét thương. Đồng thời lẽ ghét ấy cũng là cơ sở để tác giả thể hiện lẽ thương của mình. Ông thương những nhà hiền triết, bậc chí nhân, quân tử như: Khổng Tử, Đào Tiềm, Nguyên Lượng, Hàn Dũ,… Họ đều là những con người tài giỏi, mang trong mình tâm niệm đem tài năng ra giúp ích cho đời song lại không đạt được sở nguyện. Thấp thoáng ở những nhân vật đó ta thấy hình ảnh của Nguyễn Đình Chiểu, ông cũng mang trong mình những suy nghĩ, khát vọng lớn lao nhưng đều đi vào bế tắc. Bởi vậy khi nhắc đến những nhân vật này ta cảm nhận được niềm cảm thông và đồng cảm sâu sắc của tác giả đối với họ. Tác giả kết thúc tác phẩm bằng hai câu thơ: “Xem qua kinh sử mấy lần/ Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương” như là một lời tóm lại lẽ ghét thương ở đời.
Lẽ ghét thương của ông Quán là những tình cảm đạo đức của một con người vốn là học trò của nơi của Khổng sân Trình, đã thấm những đạo lí nho gia tốt đẹp. Tuy nhiên, ta cũng cần thấy rằng lẽ ghét thương đó được xuất phát từ một con người sống gần gũi với nhân dân và có tình yêu thương tha thiết với họ. Lời lẽ trong bài vô cùng đanh thép, mạch lạc, dõng dạc cho thấy tính cách bộc trực, đầy hào khí rất đúng với cốt cách, tinh thần của con người Nam Bộ. Như đã khái quát từ đầu, ông Quán cũng là một trong rất nhiều nhân vật được dùng để thể hiện tư tưởng quan điểm của tác giả. Bởi vậy, khi khẳng định những phẩm chất tư tưởng này ta cũng không nên đồng nhất chúng chỉ là của riêng nhân vật trong tác phẩm. Đây cũng chính là quan niệm, lẽ sống của tác giả Nguyễn Đình Chiểu “một nhà nho nghĩa khí, đầy lòng yêu nước, thương dân và nhuần thấm rất sâu “chất Nam Bộ” trong cách sống, cách nhìn, cách nghĩ và cách nói”.
Để tạo nên sự thành công của đoạn trích, những đặc sắc nghệ thuật ta cũng không thể không nhắc đến. Văn bản được viết bằng thứ ngôn ngữ dung dị, đậm chất Nam Bộ nhưng cũng hết sức truyền cảm, giàu cảm xúc. Sử dụng hình thức liệt kê, phép điệp cho thấy rõ lẽ ghét thương ở đời của tác giả. Giọng thơ linh hoạt, đa dạng lúc cuồn cuộn sục sôi khi nói về lẽ ghét, lúc lại da diết, trầm buồn khi nói về lẽ thương.
Tác phẩm để lại ấn tượng sâu đậm nơi người đọc bởi sự kết tinh hài hòa giữa nội dung và hình thức nghệ thuật. Lẽ ghét thương đã nói lên những tình cảm yêu ghét chân thành, thẳng thắn mà cũng hết sức tha thiết của một tấm lòng vĩ đại, suốt một đời yêu nước, thương dân.
Bài văn mẫu 2
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà Nho chân chính, tuy mang tật mù lòa nhưng tâm hồn và nhân cách ông luông trong sáng, thuần khiết. Ông không chỉ là một người con có hiếu, người thầy mẫu mực mà còn là một nhà văn, nhà thơ để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị. Tiêu biểu là truyện thơ Lục Vân Tiên “bản trường ca ca ngợi chính nghĩa, những đạo đức đáng quý đáng trọng ở đời”. Đoạn trích “Lẽ ghét thương” từ câu 473 đến câu 504 kể về cuộc nói chuyện giữa ông Quán và các nho sĩ trẻ tuổi, đồng thời thể hiện tình cảm chân thành thương ghét của tác giả đã minh chứng cho tài năng và nhân cách Đồ Chiểu.
Ông Quán trong đoạn trích là nhân vật tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu đã thẳng thắn bày tỏ thái độ “Quán rằng ghét việc tầm phào/ Ghét cay ghét đắng ghét vào tận tâm” khi chứng kiến thói đời trong sự việc của bốn chàng Nho sinh là Lục Vân Tiên cùng bạn Tử Trực đi thi vào quán trọ gặp Trịnh Hâm và Bùi Kiệm cũng là sĩ tử. Trịnh Hâm đề nghị bốn người làm thơ để so tài cao thấp, Vân Tiên và Tử Trực thắng nhưng lại bị bọn tiểu nhân Trịnh Hâm, Bùi Kiệm nghi ngờ gian lận. Nhân sự việc mà ông Quán bàn về lẽ ghét thương ở đời với cách viết thật tài tình, dẫn chứng thuyết phục cho thấy vốn kiến thức sâu rộng của tác giả thông qua cảm nhận giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
Trước tiên bàn về giá trị nội dung: Bao trùm lên tác phẩm là tình cảm thương ghét rõ ràng của ông Quán.Theo ông cái gốc của lẽ ghét là lòng thương yêu con người. Bởi nếu không có lòng thương thì mọi sự ghét trở nên hằn học với đời và không có tính nhân văn cao cả. Chính vì vậy ông ghét là do thương quá nhiều, càng thương cái đẹp bị vùi dập bao nhiêu thì ông lại càng ghét cái ác cái xấu bấy nhiêu. Ông ghét không phải vì tư lợi bản thân, vì cá nhân long đong lận đận mà ghét vì tấm lòng thương dân sâu nặng phải chịu khổ chịu cực mà ghét và oán hận bọn người nhũng nhiễu để dân đen rơi vào cảnh lầm than. Tuyên ngôn về lẽ ghét thương của ông “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương” như một yêu cầu về đạo đức và lẽ sống làm người. Thì ra ghét cũng là một biểu hiện của lòng thương khi đã đạt đến giá trị cực đại.
Ông bàn đến lẽ ghét trước để làm bàn đạp cho lẽ thương hiện hữu. Đồ Chiểu ghét các triều đại và những nhân vật đại diện cho triều đại đó như vua Kiệt nhà Hạ, vua Trụ nhà Thương bạo ngược và hoang dâm vô độ rồi U Vương và Lệ Vương mê tửu sắc không quan tâm triều chính, năm vua đời nhà Chu kéo bè kéo cánh chém giết bạo loạn gây nên cảnh điêu đứng cho dân chúng. Những điều đó đã được ghi lại trong lịch sử Trung Hoa được ông lấy làm dẫn chứng và tất cả những con người ấy đều có một điểm chung là gây ra tai họa cho dân. Tác giả đã đứng hẳn về phía nhân dân mà lên tiếng tố cáo, oán trách bọn vua quan phong kiến độc ác, tàn bạo.
Tiếp đó là lẽ thương hiện hữu. Ông thương cho những người hiền tài bị vùi dập, mong nguyện phò vua giúp nước không thành nên người thì phải lui về ở ẩn, kẻ chết yểu…Những con người ấy có chung cảnh ngộ với tác giả là người tài mà không có cơ hội cống hiến tài đức cho dân cho nước. Ông thương Khổng Tử thì lận đận trong con đường truyền đạo và giáo hóa dân chúng, là Nhan Uyển thì chết yểu, là Gia Cát Lượng tài ba lại không gặp đúng thời thế, Đổng Tử là Đổng Trọng Thư “Có thời có chí, ngôi mà không ngôi” ông ra làm quan mà không được trọng dụng tài năng, thương cho Đào Tiềm không ham, không chịu được nỗi nhục chốn quan trường mà lui về ở ẩn để gìn giữ khí tiết, là thương cho Hàn Dũ vì dâng biểu khuyên vua không nên quá tin đạo Phật mà bị tội, bị đày, thương cho thầy Liêm, Lạc “bị lời xua đuổi về nhà giáo dân”. Những con người, những sự việc ấy đều được tác giả chọn lọc với những chi tiết điển hình, lối diễn đạt sinh động và cách sử dụng điệp từ “thương ông”, “thương thầy” đã để lại được ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.
Như vậy Lẽ ghét thương của ông Quán được bắt nguồn từ lòng thương dân thương đời. Tuy nhiên thương người cũng chính là thương mình. Khi viết truyện “Lục Vân Tiên” cũng là lúc hoàn cảnh của tác giả đang gặp phải nhiều khó khăn: mẹ mất, mắt bị mù con đường hoạn lộ công danh bị bỏ dở, một thời mơ ước lập thân để trả nợ nước nhưng cuộc đời lại gặp nhiều bất hạnh. Ông nói chuyện xưa cũ bên Tàu là để nói chuyện đương thời về triều đại ông đang sống vua Thiệu Trị, Tự Đức ăn chơi xa xỉ không chăm lo cho đời sống nhân dân. Chính điều đó nên nhân vật ông Quán trong đoạn trích có ít nhiều nét tương đồng với Đồ Chiểu.
Về phương diện nghệ thuật đoạn trích có sử dụng dụng điệp từ “ghét”, “thương”, “dân”…, điệp cấu trúc “ghét đời…”, “thương ông…” càng làm nổi bật “tiêu chuẩn ghét” của tác giả là xuất phát từ thương. Dẫn chứng nhân vật và sự việc tiêu biểu, điển hình dù là “Xem qua kinh sử mấy lần” nhưng với lối diễn đạt linh hoạt, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân kết hợp với thể thơ lục bát làm cho đoạn trích dễ nhớ dễ thuộc dễ đi vào lòng người. Sử dụng nghệ thuật tiểu đối, đối từ ngữ trong câu: hay ghét >< hay thương, sa hầm >< sẩy hang, sớm đầu >< tối đánh, có thời có chí >< ngôi mà không ngôi, sớm dâng lời biểu >< tối đày đi xa,… làm cho câu thơ có vần có nhịp, bộc lộ được thái độ ghét thương rõ ràng của tác giả.
Giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật làm nên thành công của đoạn trích. Một mặt truyền tải tư tưởng đạo đức nhân nghĩa “Lấy dân làm gốc”, luôn đứng trên quan điểm của nhân dân. Một mặt cho thấy tài năng nghệ thuật và sự hiểu biết sâu rộng của một nhà Nho chân chính.
Đoạn trích “Lẽ ghét thương” đã thể hiện tình cảm, thái độ thương ghét chân thành của tác giả. Là tuyên ngôn sâu sắc cho giá trị đạo đức ở đời, minh chứng cho quan điểm sáng tác của nhà thơ mù Nguyễn Đình Chiểu: “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm/ Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà” hay “Học theo ngòi bút chí công/ Trong thơ cho ngụ tấm lòng xuân thu”.
Bài văn mẫu 3
Nguyễn Đình Chiểu là ngôi sao sáng trên bầu trời văn học trung đại Việt Nam. Các sáng tác của ông đã thể hiện rõ quan điểm nghệ thuật:
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà
Đặc biệt vấn dề về đạo đức của con người được nhà thơ quan tâm và thế hiện ở nhiều góc độ. Và Lục Vàn Tiên là tác phẩm tiêu biểu cho vấn đề này. Đó là điều cốt lõi, là khát vọng xây dựng mối quan hệ bè bạn giữa người với người. Trong hệ thống nhân vật lí tưởng của tác phẩm, ông Quán là một nhân vật hấp dẫn. Đó là một nhà Nho ở ẩn, thực chất cũng chính là bản thân Đồ Chiểu tự bộc bạch tình cảm của mình trước sự đời.
Lục Vân Tiên không phải là tác phẩm đề cao trung, hiếu, tiết, hạnh mà là tác phẩm đề cao nhân nghĩa và phê phán tất cả những cái gì là bất nhân, bất nghĩa. Bao trùm tác phẩm là những tình cảm rất đẹp đẽ, hổn nhiên của những con người biết cứu giúp nhau trong hoạn nạn, yêu thương nhau lúc khó khăn, những con người sống chí tình chí nghĩa. Ngòi bút của nhà thơ bao giờ cùng sôi nổi, tràn đầy yêu thương. Viết Lục Vân Tiên – Nguyễn Đình Chiểu như có ý muốn nêu lên những tấm gương về luân lí đạo đức. Mà nói đến đạo đức phong kiến thì đều cơ bản là ái quốc. Trung quân là trung với nước, với lẽ phải, với lương tri con người.
Đoạn trích Lẽ ghét thương trong Lục Vân Tiên gồm hai mươi sáu câu thơ lục bát, là lời của ông Quán. Trong lời ông Quán ta thấy rõ tư tưởng trung quân của Nguyễn Đình Chiểu trước hết không phải xuất phát từ vua mà từ dân, từ lợi ích của dân. Nhà thơ thấy chỉ có thể trung với những ông vua tốt, biết chăm lo cho dân, chứ đối với những tên vua xấu, vua ác làm hại dân, gây đau khổ cho dân thì ông lên án gay gắt. Bởi vậy cái ghét, tình thương của ông xuât phát từ một tấm lòng yêu thương sâu xa nồng thắm:
Bởi chưng hay ghét cũng là hay thương.
Lẽ ghét thương là những lời tâm huyết về nỗi ghét, tình thương nhân bản của Nguyễn Đình Chiểu. Trong đoạn trích nói về lẽ ghét thương có hai mươi sáu câu thì trong đó có mười câu nói về lẽ ghét, mười sáu câu nói về tình thương, về lẽ thương (dài gần gấp đôi so với lời nói về ghét). Ta thấy căn nguyên, gốc rễ của cái ghét: ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm, những cái tầm phào, những cái đa đoan, những cái dổi trá, những cái mê dâm là vì chúng làm dối dân, làm dân nhọc nhằn, dân luống chịu lầm than muôn phần, làm dân đến nỗi sa hầm sẩy hang. Như vậy căn nguyên của cái ghét là bởi vì tình thương sâu sắc đối với người dân. Những kẻ có quyền, có ô lọng đã lợi dụng chỗ dựa để lừa gạt, làm hại dân… Thực ra là những ông vua bạo ngược, những kẻ kéo bè kéo phái gây chiến tranh hại dân… đời Kiệt, Trụ; đời U, Lệ; đời Ngũ Bá, đời Thúc, Quý.
Trong số mười câu thơ nói về lẽ ghét thì bốn câu có từ dân nói về nỗi khổ của dân:
Đề dân đến nồi sa hẩm sẩy hang.
Khiến dăn luống chịu lẩm than muôn phần.
Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn.
Sớm đâu tối đánh lằng nhằng dối dân.
Nỗi ghét được giãi bày sâu đậm, cao độ. Bằng việc sử dụng điệp từ ghét trong câu thơ tám tiếng:
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm.
Đã diễn tả thái độ căm thù, khinh bỉ cực sâu. Đặc biệt nghệ thuật tăng cấp: cay – đắng – vào tận tâm tả cụ thể màu sắc, mùi vị và độ sâu tăng dần của cái ghét: Từ cái ghét có vị cay, sang cái ghét có vị đắng, đến cái ghét có độ sâu của lòng người: ghét vào tận tâm. Như vậy, nhà thơ đã vận dụng quy luật chuyển đổi cảm giác: Từ vị giác (cay – đắng kết hợp với từ ghét tạo nên một thứ cảm xúc đặc biệt ghét cay, ghét đắng, đến ghét vào tận tâm. Với cách diễn đạt tăng cấp này; Nguyễn Đình Chiểu cho thấy cái ghét của ông Quán chính là lòng căm cao độ, sâu cay. Ông căm thù tất cả những kẻ làm tổn hại đến cuộc sống, hạnh phúc của nhân dân. Chính điều này đã thể hiện rõ tính nhân dân sâu sắc của thơ Đồ Chiểu).
Từ lẽ ghét, ông Quán bộc lộ tình thương bao la. Lời tự bạch của ông qua mười sáu câu thơ đã tỏ rõ thái độ kính yêu, trân trọng và tấm lòng cảm thương sâu sắc với những bậc hiền tài, đức hạnh, những người làm việc giúp dân. Mở đầu là ông nói tình thương của mình đối với Khổng Tử vất vả, gian lao trong công việc truyền đạo Nho:
Thương là thương đức thánh nhân
Khi nơi Tống, Vệ, lúc Trần, lúc Khuông.
Sau đó ông bộc lộ tình thương với thầy Nhan Tử, với Gia Cát, Đổng Tử, Nguyên Lượng, Hàn Dũ, Liêm, Lạc. Đó là những hiền nhân, quân tử, kiểu mẫu của dạo Nho, muốn hành đạo giúp vua cứu đời, cứu dân nhưng rút cục là gặp bất hạnh hoặc chết yểu, hoặc không được vua tin dùng… mơ ước và nguyện vọng hành đạo, cứu đời, cứu dân của họ không thành. Như vậy tình thương của ông Quán với những bậc quân tử cuối cùng cũng bởi tình thương dân, vì thương dân mà thương những người bị thất bại trong việc cứu giúp dân.
Nếu đoạn thơ mười câu nói về lẽ ghét của ông Quán thì ở đoạn thơ mười sáu câu ông Quán lại bộc lộ lòng thương yêu trực tiếp đốỉ với những người có tài cao, chí lớn, muốn cứu đời, giúp dân… mà gặp rủi ro bất trắc nên nguyện vọng cứu đời, cứu dân không thực hiện được trọn vẹn.
Đoạn thơ mười sáu câu đã thể hiện rõ tính chất bác ái, nhân bản bao la. Vẫn là nghệ thuật điệp từ thương lặp lại 9 lần với những cặp câu đốì xứng hài hòa. Đặc biệt, mở đầu đoạn thơ nhà thơ dùng hai từ thương: Thương là thương đức thánh nhân. Từ thương lặp lại nhiều lần đã biểu hiện niềm yêu thương tha thiết của ông Quán đối với Khổng Tử khi gặp gian nan, vất vả trên đường hành đạo.
Lòng thương của ông Quán rộng lớn bao la, thương cả những người chết yểu khi công danh còn dang dở:
Thương thầy Nhan Tử dở dang
Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh.
Thương cả những người không gặp may trên đường đời:
Thương ông Gia Cát tài lành
Gặp cơn Hán mạt đã đành phui pha.
Và cả những người bị oan khiên bị giáng chức, ngồi tù: Đổng Tử, Nguyên Lượng.. Từ tình thương những người cụ thể, ông Quán bộc lộ tình thương đến sô phận cay đắng của con người trước những quy luật khắc nghiệt của tạo hóa và xã hội. Đó cũng chính là tình cảm gắn bó máu thịt với nhân dân mà cốt lối là mong cho dân tộc được hạnh phúc, bình an.
Đoạn trích có bố cục chặt chẽ, mạch lạc và lô-gích. Có câu mở dầu nói về nỗi ghét:
Quản rằng: Ghét việc tầm phào
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm.
Đối lập lại là những câu nói về tình thương và cũng có câu mở đầu:
Thương là thương đức thánh nhân
Kết cho cả hai đoạn là câu nói về cả ghét – thương:
Xem qua kinh sử mấy lần
Nửa phần lại ghét, nửa phần lạithương.
Những điệp từ ghét – thương trong các ý nhỏ vừa tách biệt, vừa liên kết các ý đã làm cho đoạn thơ liền mạch, chặt chẽ… tạo nên giọng thơ vừa trang nghiêm, vừa thống thiết xót xa.
Thông qua lời ông Quán, Nguyễn Đình Chiểu đã giãi bày tâm huyết của mình về lẽ ghét, tình thương với con người. Lời giãi bày đó thể hiện được quan điểm đạo đức yêu – ghét trước cuộc đời mà xuất phát của tình cảm đó là bởi vì cuộc sống của nhân dân. Bởi vậy có thể khẳng định tư tưởng cốt lõi của đoạn trích là ở tấm lòng yêu thương nhân dân sâu sắc, tha thiết của nhà thơ.

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here