Văn mẫu Phân tích truyện Chuyện người con gái Nam Xương
Mọi ý kiến đóng góp xin gửi vào hòm thư: [email protected]
Tổng hợp các đề cương đại học hiện có của Đại Học Hàng Hải: Đề Cương VIMARU
Kéo xuống để Tải ngay đề cương bản PDF đầy đủ: Sau “mục lục” và “bản xem trước”
(Nếu là đề cương nhiều công thức nên mọi người nên tải về để xem tránh mất công thức)
Đề cương liên quan:Văn mẫu Giá trị nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương
Tải ngay đề cương bản PDF tại đây: Văn mẫu Phân tích truyện Chuyện người con gái Nam Xương
Phân tích truyện “Người con gái
Nam Xương” của Nguyễn Dữ
BÀI LÀM
BÀI VIẾT THAM KHẢO:
Truyền kỳ mạn lục là một tác phẩm có giá trị của văn
học cổ nước ta ở thế kỷ XVI, một tập truyện văn xuôi
bằng chữ Hán đầu tiên ở Việt Nam. Truyện “ Chuyện
người con gái Nam Xương” là một truyện hay trong
tác phẩm đó được trích trong Truyền kì mạn lục của
Nguyễn Dữ.
Truyện kể về một người phụ nữ tên là Vũ Thị Thiết ở
huyện Nam Xương, tỉnh Hà Nam. Vốn là một người vợ
đoan chính, đảm đang. Nàng giữ lòng chung thuỷ, hầu
hạ mẹ chồng, chăm sóc con thơ trong suốt thời gian
chồng đi lính ở phương xa. Khi trở về vì nghe lời ngây
thơ của con trẻ, người chồng nghi ngờ nàng thất tiết
nên đánh mắng đuổi đi. Không thể phân giải được
oan tình, nàng trẫm mình ở sông Hoàng Giang. Cảm
động vì lòng trung thực của nàng, Linh Phi (vợ vua
biển) cứu vớt nàng và cho ở lại Long Cung. Người
chồng biết vợ bị oan nên rất hối hận, lập đàn giải oan
cho nàng. Vũ Nương hiện lên, ẩn hiện trong chốc lát
rồi trở lại Long Cung.
Chuyện ca ngợi một người phụ nữ có phẩm chất, có
tâm hồn trong sáng, sáng ngời như ngọc lại bị nỗi oan
tày trời vì một chuyện vờ ghen vớ vẩn của người
chồng nông nổi. Cuối cùng nàng phải tìm đến cái chết
để giải nỗi oan tình.
Tác giả đặt nhân vật Vũ Nương vào những hoàn cảnh
khác nhau, qua đó bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp
của người phụ nữ. Vũ Nương vốn là người con gái có
tư dung tốt đẹp, tính tình thuỳ mị, nết na. Khi lấy
chồng, nàng luôn giữ gìn khuôn phép, không để vợ
chồng phải thất hoà dù Trương Sinh vốn có tính hay
ghen. Khi chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy
tiễn chồng. Lời của nàng thật xúc động, nói về niềm
yêu thương, mong nhớ của mình đối với người chồng
sẽ đi xa, rồi bày tỏ nỗi lo lắng trước những gian lao
nguy hiểm mà người chồng sẽ trải qua, niềm mong
ước được đoàn tụ … làm mọi người trong tiệc đều ứa
hai hàng lệ.
Chồng đi đánh giặc ngoài biên ải, nàng một lòng son
sắt, thuỷ chung, “cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết”,
mong đợi chồng về trong cô đơn mòn mỏi “mỗi khi
thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi
buồn góc bể, chân trời không thể nào ngăn được”.
Hơn nữa, nàng là một người con dâu hiếu kính, tận
tuỵ chăm sóc khi mẹ chồng còn sống, chôn cất mẹ
chồng khi mẹ qua đời (lo liệu như đối với mẹ đẻ
mình).
Rồi đằng đẳng thời gian trôi qua, chồng ra lính trở về,
cùng là lúc nàng bị nghi oan. Vũ Nương đã phân trần
để chồng hiểu rõ tấm lòng mình: “Thiếp vốn con kẻ
khó … mong chàng đừng một mực nghi oan cho
thiếp”. Nàng đã nói đến thân phận mình, tình nghĩa vợ
chồng và khẳng định lòng chung thuỷ, hết lòng tìm
cách hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ bị
tan vỡ. Dù họ hàng, làng xóm có bênh vực và biện
bạch, Trương Sinh vẫn không tin. Bất đắc dĩ Vũ
Nương thống thiết: “Thiếp sỡ dĩ nương tựa vào chàng
… đâu có thể lên núi vọng phu kia nữa!”. Đó là hạnh
phúc gia đình, niềm khao khát của cả đời nàng giờ
đây tan vỡ. Tình yêu không còn, cả nỗi đau khổ chờ
chồng giờ đây hoá đá….
Tuyệt vọng vì phải gành chịu nỗi oan khuất tày trời
không phương giải bày, cứu chữa nàng đành mượn
cái chết để chứng tỏ tiết hạnh trong sáng của mình.
lời khấn nguyện với thần linh vô cùng thảm thiết:
“Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng,
vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm
cỏ Nga Mĩ. Nhựợc bằng lòng chim, dạ cá, lừa dối
chồng con, được xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm
cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ
…” lời khấn nguyện đã làm cho người đọc xót xa – con
người rơi cảnh ngộ bế tắc, không thể tiếp tục sống để
tự giải oan tình mà phải tìm đến cái chết để thần linh
chứng dám.
Sau một năm ở thuỷ cung, khi nghe kể chuyện nhà,
nàng đã ứa nước mắt khóc, nghĩ đến câu “ngựa Hồ
gầm giá Bắc, chim Việt đậu cành Nam” rồi hiện về trên
dòng nước cho thoả lòng nhớ chồng, con.
Qua những hoàn cảnh khác nhau của vũ Nương, với
những lời tự thoại của nàng, truyện đã khẳng định
những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt
Nam – một người phụ nữ đẹp người, lại nết na, hiền
thục, đảm đang, tháo vát, rất mực hiếu kính với mẹ
chồng, giữ vẹn lòng chung thuỷ sắt son với chồng,
hết lòng vun đắp hạnh phúc gia đình, …. lẽ ra phải
được hạnh phúc trọn vẹn thế mà phải chết một cách
oan uổng, đau đớn.
Cái chết của Vũ Nương có nhiều nguyên nhân sâu xa,
bắt nguồn từ hiện thực nghiệt ngã của lễ giáo phong
kiến của xã hội cũ, với chế độ “nam quyền”, coi rẻ
thân phận của người phụ nữ, rồi tính đa nghi, ghen
tuông của chồng, thói hung bạo, gia trưởng của
chồng đã làm khổ đau bao cuộc đời những người phụ
nữ.
Cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh có
phần không bình đẳng (thiếp vốn con nhà khó, được
nương tựa nhà giàu). Xã hội phong kiến lại coi trọng
“nam quyền”, hơn nữa Trương Linh lại có tính đa
nghi, đối với vợ thì phòng ngừa quá mức. Những chi
tiết này chuẩn bị cho những hành động độc đoán của
Trương Sinh sau này.
Khi đánh giặc trở về, Trương Sinh cũng mang một
tâm trạng nặng nề: mẹ qua đời, con vừa học nói, lòng
buồn bã. Trong hoàn cảnh như thế, lời của Bé Đản dễ
kích động tính hay ghen của Trương Sinh: “trước đây,
thường có một người đàn ông đêm nào cũng đến…”
Điều đáng trách là thái độ và hành động độc đoán của
Trương Sinh khi ấy. Không đủ bình tĩnh để tìm hiểu
vấn đề, chàng bỏ ngoài tai những lời phân trần của
vợ, những lời bênh vực của họ hàng, làng xóm, không
chịu nói ra duyên cớ ghen hờn. Cuối cùng, Sinh lại
mắng nhiếc nàng và đánh đuổi nàng đi. Thái độ và
hành động của Trương Sinh vô hình dung dẫn đến cái
chết oan nghiệt của Vũ Nương.
Hành động gieo mình xuống sông Hoàng Giang của
Vũ Nương phản ánh một thực trạng về thân phận
người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ bị buộc
chặt trong khuôn khổ khắt khe của lễ giáo, bị đối xử
bất công, bị áp bức và chịu nhiều khổ đau, bất hạnh.
Đó cũng chính là giá trị tố cáo hiện thực của tác
phẩm. Đằng sau nỗi oan của người thiếu phụ Nam
xương, còn bao nhiêu oan tình bất hạnh mà người
phụ nữ ngày xưa phải gánh chịu: Nàng Kiều trong
“Truyện Kiề”u của Nguyễn Du, người cung nữ trong
“cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều, người
phụ nữ lỡ duyên tình trong thơ Hồ Xuân Hương, …
Phải nhận thấy rõ rằng với truyện ngắn đầu tiên viết
bằng chữ Hán, Nguyễn Dữ đã có những mặt thành
công trong nghệ thuật xây dựng truyện, xây dựng
những đoạn đối thoại. Cách kể chuyện hấp dẫn, xây
dựng tình tiết, thắt nút và gỡ nút thật bất ngờ, đầy
kịch tính, càng làm cho nỗi oan tình của nhân vật hiện
ra với tất cả nét thảm khốc.
“Thắt nút” truyện bằng yếu tố bất ngờ. Một câu nói
ngây thơ nghe như thật của trẻ thơ mà gây bão tố dây
chuyền trong cuộc đời. Bão tố nghi kị trong một đầu
óc nam quyền độc đoán, thiếu trí tuệ ; bão tố bất hoà
dữ dội phá tan hạnh phúc của một gia đình êm ấm.
Bão tố oan khiên phá nát cuộc đời của một người con
gái trong trắng, phải kết thúc bi thảm trêm một dòng
sông.
“Gỡ nút” cũng bất ngờ bằng một câu nói trẻ thơ non
dại (khi chỉ cái bóng của chàng Trương trên vách:
“cha Đản lại đến kia kìa” thì bao nhiêu oan khiên gây
thảm kịch trong phút chốc bỗng được sáng tỏ.
Truyện có những đoạn đối thoại và những lời tâm tình
của nhân vật được sắp xếp đúng chỗ, làm cho câu
chuyện trở nên sinh động, góp phần khắc hoạ diễn
biến tâm lí và tính cách nhân vật ; lời nói của bà mẹ
Trương Sinh nhân hậu, từng trải ; lời lẽ của Vũ Nương
bao giờ cũng chân thành, dịu dàng, mềm mỏng, có lí,
có tình – lời của người phụ nữ hiền thục, đoan chính ;
lời của Bé Đản hồn nhiên, ngây thơ, thật thà.
Chuyện đáng lẽ có thể kết thúc ở đoạn “gỡ nút”
truyện, chàng Trương Sinh tỉnh ngộ, thấu hiểu nỗi oan
của Vũ Nương nhưng Nguyễn Dữ đã thêm phần Vũ
Nương trở về dương thế, gặp chồng trong thoáng
chốc. So với truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”,
Nguyễn Dữ đã tái tạo truyền kì từ cổ tích để nâng
truyện lên những giá trị tư tưởng và thẩm mĩ mới.
Điều đó, làm tăng thêm sức hấp dẫn của truyện và
hoàn chỉnh tính cách nhân vật Vũ Nương, thoả mãn
ước mơ của nhân dân là “ở hiền gặp lành”, ngưởi tốt
sẽ được đền bù. Truyện kết thúc có hậu. Trong
truyện, những yếu tố truyền kì tập trung ở phần sau
của truyện như con rùa mai xanh được Phan Lang
cứu, Vũ Nương được ở lại Thuỷ Cung, rồi hiện về với
kiệu hoa rực rỡ trên sông… đó là những tình tiết kì ảo,
không có thực nhưng đã tạo ra một thế giới nghệ
thuật lung linh huyền ảo.
Số phận và cuộc đời thực sự vẫn là thực xưa nay.
Yếu tố hoang đường truyền kì không thể cứu được
cuộc đời Vũ nương với số phận bi thảm của nàng. Vũ
Nương muốn sống lại mà không được sống, muốn trở
về với chồng con và quê hương mà không thể trở về
được.
Truyện “Người con gái Nam Xương” có giá trị hiện
thực tố cáo và ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Nghĩ về Vũ
Nương và biết bao thân phận người phụ nữ khác
trong xã hội phong kiến được phản ánh trong các tác
phẩm văn học cổ, chúng ta càng thấy rõ giá trị cuộc
sống của những người phụ nữ Việt Nam trong một xã
hội tốt đẹp hôm nay. Họ đang vươn lên làm chủ cuộc
đời, sống bình đẳng, hạnh phúc với chồng con và
được đề cao nhân phẩm trong xã hộ, xã hội của thời
đại mới.