Mọi ý kiến đóng góp xin gửi vào Hòm thư: [email protected]
Kéo xuống để Tải ngay đề cương bản PDF đầy đủ: Sau “mục lục” và “bản preview”
(Nếu là đề cương nhiều công thức nên mọi người nên tải về để xem tránh mất công thức)
Bài Viết Liên Quan: Ảnh hưởng của thông tin chia tách cổ phiếu đến sự thay đổi giá và thanh khoản của các cổ phiếu: Bằng chứng thực nghiệm từ sở giao dịch chứng khoán Hà Nội
Tải ngay đề cương bản PDF tại đây: Ảnh hưởng của thông tin lợi thế thương mại đến tăng trưởng trung bình giá trị thị trường của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
1. Giới thiệu
Trong bối cảnh nền kinh tế đang phát triển của Việt Nam, lợi thế thương mại không còn là vấn đề mới nhưng vẫn là một vấn đề rất phức tạp, đặc biệt là đo lường lợi thế thương mại. Nghiên cứu của Đoàn Thị Hồng Nhung (2019a) cho thấy các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam còn chưa tuân thủ đầy đủ các quy định về trình bày và công bố thông tin lợi thế thương mại theo chuẩn mực kế toán số 11. Năm 2017, tỷ lệ rất cao các công ty không công bố thông tin về giá trị tài sản thuần của công ty con được sử dụng khi tính toán lợi thế thương mại (67%); tỷ lệ các công ty công bố sử dụng giá trị ghi sổ tài sản thuần của công ty con để tính toán lợi thế thương mại là 5% và tỷ lệ các công ty công bố sử dụng giá trị hợp lý tài sản thuần của công ty con để tính toán lợi thế thương mại là 29%. Các nghiên cứu tại những nước có nền kinh tế phát triển đều cho thấy lợi thế thương mại có mối quan hệ cùng chiều với giá trị thị trường của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán (Chauvin, 1994; McCarthy và Schneider, 1995; Qureshi và Ashraf, 2013). Với mức độ tuân thủ trong công bố thông tin lợi thế thương mại của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam còn thấp, thông tin lợi thế thương mại có ảnh hưởng đến tăng trưởng giá trị thị trường của các công ty niêm yết hay không vẫn còn là một câu hỏi. Nghiên cứu so sánh tăng trưởng trung bình giá trị thị trường của nhóm công ty công bố thông tin lợi thế thương mại và nhóm công ty không công bố thông tin lợi thế thương mại để chứng minh ảnh hưởng của thông tin lợi thế thương mại đối với tăng trưởng trung bình giá trị thị trường của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
2. Tổng quan nghiên cứu
Một số nghiên cứu điển hình thực hiện đánh giá ảnh hưởng của thông tin lợi thế thương mại đến giá trị thị trường của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ đều cho kết quả khá thống nhất. Nghiên cứu của Wang (1993) đã chứng minh rằng lợi thế thương mại có mối quan hệ dương với giá trị thị trường của các công ty. Kết quả nghiên cứu của Wang (1995) còn cho thấy ảnh hưởng của lợi thế thương mại đến giá trị thị trường của các công ty còn mạnh hơn ảnh hưởng của các tài sản khác. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của Chauvin (1994) lại cho thấy lợi thế thương mại chỉ có mối quan hệ dương với giá trị thị trường của các công ty trong lĩnh vực phi sản xuất. Nghiên cứu của Qureshi và Ashraf (2013) thực hiện đối với các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Anh cũng cho kết quả tương tự như các nghiên cứu tại Mỹ, đó là lợi thế thương mại có ảnh hưởng đáng kể đối với giá trị thị trường của các công ty niêm yết. Như vậy, có thể thấy kết quả nghiên cứu tại những nước có nền kinh tế phát triển, tỷ trọng Lợi thế thương mại trong Tổng tài sản cao (trung bình là 16%) (Giacomino và Akers, 2009), đều thống nhất rằng lợi thế thương mại có tác động tích cực đến giá trị thị trường của các công ty niêm yết. Điều này chứng tỏ các nhà đầu tư có phản ứng tích cực đối với thông tin lợi thế thương mại. Các nghiên cứu thực hiện tại những nước có nền kinh tế đang phát triển còn rất khiêm tốn và mô hình nghiên cứu đơn giản. Điển hình là nghiên cứu của Zare và cộng sự (2012) cũng đã chỉ ra sự tồn tại mối quan hệ dương giữa lợi thế thương mại với giá trị thị trường của các công ty niêm yết. Tuy nhiên, mô hình của nghiên cứu này chỉ có một biến độc lập duy nhất là biến Lợi thế thương mại. Do đó, kết quả nghiên cứu có độ tin cậy chưa cao. Đoàn Thị Hồng Nhung (2019b) cũng đã chứng minh được ảnh hưởng tích cực của thông tin lợi thế thương mại đối với giá trị thị trường của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Tổng quan các công trình nghiên cứu tiên nghiệm cho thấy các nghiên cứu đều sử dụng phương pháp nghiên cứu hồi quy giá trị thị trường của các công ty theo lợi thế thương mại mà chưa xem xét đến ảnh hưởng của thông tin lợi thế thương mại đến tăng trưởng trung bình giá trị thị trường của các công ty trong một khoảng thời gian dài. Do đó, nghiên cứu này được thực hiện để đánh giá sự khác biệt tăng trưởng trung bình giá trị thị trường giữa nhóm công ty công bố thông tin lợi thế thương mại và nhóm công ty không công bố thông tin lợi thế thương mại.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Thu thập dữ liệu và chọn mẫu
Dữ liệu nghiên cứu thu thập từ báo cáo tài chính hợp nhất của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong 8 năm từ 2010 đến 2017. Mẫu thu được 109 công ty theo các tiêu chí cơ bản sau: – Các công ty có thời gian niêm yết tối thiểu từ năm 2010 và vẫn tiếp tục được niêm yết ít nhất đến hết quý 1 năm 2018. – Các công ty được lựa chọn theo tiêu chuẩn phân ngành ICB (Industry Classification Benchmark) gồm: Dầu khí; Công nghiệp; Hàng tiêu dùng; Y tế; Dịch vụ tiêu dùng; Viễn thông; Các dịch vụ hạ tầng; Tài chính; Công nghệ và Vật liệu cơ bản. Thu thập số lượng cổ phiếu thường công bố trên Thuyết minh báo cáo tài chính quý 1 hàng năm đã được kiểm toán của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Thu thập giá đóng cửa của cổ phiếu vào ngày giao dịch đầu tiên của quý 2 hàng năm trên trang thông tin điện tử của Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh, sở giao dịch chứng khoán Hà Nội và các trang thông tin điện tử như www.ssi.com.vn; www.tvsi.com.vn… Giá trị thị trường năm t được tính bằng cách nhân số lượng cổ phiếu tại quý 1 năm t+1 với giá đóng cửa của ngày giao dịch đầu tiên của quý 2 năm t+1. Thông tin về việc công ty công bố giá mua khi hợp nhất: Công ty công bố giá mua thì nhận giá trị 1, công ty không công bố giá mua thì nhận giá trị 0. Thông tin công bố của các công ty về việc sử dụng giá trị tài sản thuần của công ty con khi tính toán giá trị lợi thế thương mại: Công ty công bố sử dụng giá trị hợp lý thì nhận giá trị 2, công ty công bố sử dụng giá trị ghi sổ thì nhận giá trị 1, công ty không công bố thông tin này thì nhận giá trị 0. Tăng trưởng trung bình giá trị thị trường = [(MV2011 – MV2010)/MV2010 + (MV2012 – MV2011)/MV2011 + (MV2013 – MV2012)/MV2012 + (MV2014 – MV2013)/MV2013 + (MV2015 – MV2014)/MV2014 + (MV2016 – MV2015)/MV2015+ (MV2017 – MV2016)/MV2016 ]/7 Trong đó: MV- Giá trị thị trường của các công ty tương ứng với từng năm Với quy mô mẫu nghiên cứu là 109 công ty, tác giả đã sử dụng kiểm định phi tham số MannWhitney để kiểm định sự khác biệt giữa tăng trưởng trung bình giá trị thị trường của nhóm công ty có lợi thế thương mại tăng trong kỳ và tăng trưởng trung bình giá trị thị trường của nhóm công ty không có lợi thế thương mại tăng trong kỳ. Trong nhóm công ty có lợi thế thương mại tăng, tác giả tiếp tục sử dụng kiểm định Mann-Whitney để kiểm tra sự khác biệt giữa tăng trưởng trung bình giá trị thị trường của nhóm công ty công bố giá mua và tăng trưởng trung bình giá trị thị trường của nhóm công ty không công bố giá mua và sử dụng kiểm định Kruskal Wallis đánh giá sự khác biệt giữa tăng trưởng trung bình giá trị thị trường của ba nhóm công ty khi công bố thông tin về giá trị tài sản thuần của công ty con sử dụng khi tính lợi thế thương mại gồm: nhóm thứ nhất là nhóm công ty công bố sử dụng giá trị hợp lý tài sản thuần của công ty con; nhóm thứ hai là nhóm công ty công bố sử dụng giá trị ghi sổ tài sản thuần của công ty con và nhóm thứ ba là nhóm công ty không công bố thông tin này.
3.2. Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết 1: H0: Không có sự khác biệt giữa tăng trưởng trung bình giá trị thị trường của nhóm công ty có lợi thế thương mại tăng trong kỳ so với tăng trưởng trung bình giá trị thị trường của nhóm công ty không có lợi thế thương mại tăng trong kỳ. H1: Có sự khác biệt giữa tăng trưởng trung bình giá trị thị trường của nhóm công ty có lợi thế thương mại tăng trong kỳ so với tăng trưởng trung bình giá trị thị trường của nhóm công ty không có lợi thế thương mại tăng trong kỳ. Trong nhóm công ty có lợi thế thương mại tăng trong kỳ, tác giả lại tiếp tục kiểm tra xem liệu việc công bố các thông tin liên quan đến lợi thế thương mại tăng có ảnh hưởng đến tăng trưởng trung bình giá trị thị trường của các nhóm công ty này hay không bằng cách thực hiện kiểm định giả thuyết hai và giả thuyết ba. Giá mua hay được gọi là giá phí hợp nhất kinh doanh. Giá mua bao gồm giá trị hợp lý tại ngày diễn ra trao đổi của các tài sản đem trao đổi, các khoản nợ phải trả đã phát sinh hoặc đã thừa nhận và các công cụ vốn do bên mua phát hành để đổi lấy quyền kiểm soát bên bị mua, cộng (+) các chi phí liên quan trực tiếp đến việc hợp nhất kinh doanh (Bộ Tài Chính, 2005). Lợi thế thương mại là khoản chênh lệch giữa giá mua và giá trị hợp lý tài sản thuần của công ty bị mua. Do đó, giá mua có ảnh hưởng đến kết quả xác định lợi thế thương mại. Chính vì vậy, nghiên cứu tiến hành kiểm định ảnh hưởng của công bố thông tin giá mua đến tăng trưởng trung bình giá trị thị trường của các công ty có lợi thế thương mại tăng trong kỳ. Giả thuyết 2: H0: Không có sự khác biệt giữa tăng trưởng trung bình giá trị thị trường của nhóm công ty công bố giá mua trong kỳ so với tăng trưởng trung bình giá trị thị trường của nhóm công ty không công bố giá mua trong kỳ. H1: Có sự khác biệt giữa tăng trưởng trung bình giá trị thị trường của nhóm công ty công bố giá mua trong kỳ so với tăng trưởng trung bình giá trị thị trường của nhóm công ty không công bố giá mua trong kỳ. Kết quả đo lường giá trị lợi thế thương mại phụ thuộc vào việc đo lường giá trị hợp lý tài sản thuần của công ty bị mua (công ty con). Tuy nhiên, thực tế cho thấy tỷ lệ phần trăm rất cao các công ty không công bố thông tin về giá trị tài sản thuần của công ty bị mua khi tính lợi thế thương mại (Đoàn Thị Hồng Nhung, 2019a). Do đó, tác giả thực hiện kiểm định ảnh hưởng của công bố thông tin giá trị tài sản thuần của công ty con đến tăng trưởng trung bình giá trị thị trường của các công ty có lợi thế thương mại tăng trong kỳ. Giả thuyết 3: H0: Không có sự khác biệt giữa tăng trưởng trung bình giá trị thị trường của các nhóm công ty: nhóm công bố sử dụng giá trị hợp lý của công ty con; nhóm công bố sử dụng giá trị ghi sổ của công ty con; nhóm không công bố thông tin. H1: Có sự khác biệt giữa giữa tăng trưởng trung bình giá trị thị trường của các nhóm công ty: nhóm công bố sử dụng giá trị hợp lý của công ty con; nhóm công bố sử dụng giá trị ghi sổ của công ty con; nhóm không công bố thông tin.
4. Kết quả và thảo luận
Để thực hiện kiểm chứng giả thuyết 1, tác giả sử dụng kiểm định Mann-Whitney để kiểm định sự khác biệt giữa tăng trưởng trung bình giá trị thị trường của nhóm công ty có lợi thế thương mại tăng trong kỳ và tăng trưởng trung bình giá trị thị trường của nhóm công ty không có lợi thế thương mại tăng trong kỳ. Kết quả nghiên cứu trong bảng 4.1 cho thấy tồn tại sự khác biệt giữa tăng trưởng trung bình giá trị thị trường của nhóm công ty có lợi thế thương mại tăng trong kỳ và tăng trưởng trung bình giá trị thị trường nhóm công ty không có lợi thế thương mại tăng trong kỳ. Tổng hạng trung bình của nhóm 1 (nhóm công ty có lợi thế thương mại tăng trong kỳ) là 58,49. Tổng hạng trung bình của nhóm 0 (nhóm công ty không có lợi thế thương mại tăng trong kỳ) là 36,12. Với mức ý nghĩa 5% (p- value = 0,007) ta có thể kết luận rằng nhóm công ty có lợi thế thương mại tăng trong kỳ có tăng trưởng trung bình giá trị thị trường cao hơn tăng trưởng trung bình giá trị thị trường của nhóm công ty không có lợi thế thương mại tăng trong kỳ. Như vậy, kết quả nghiên cứu này càng góp phần củng cố và khẳng định lợi thế thương mại là một tài sản và nó đóng góp vào tăng trưởng giá trị thị trường của các công ty. Để kiểm định giả thuyết 2, tác giả tiếp tục sử dụng kiểm định Mann-Whitney để kiểm tra sự khác biệt giữa tăng trưởng trung bình giá trị thị trường của nhóm công ty công bố giá mua và tăng trưởng trung bình giá trị thị trường của nhóm công ty không công bố giá mua khi các công ty này có lợi thế thương mại tăng thêm trong kỳ. Kết quả kiểm định thể hiện trong bảng 4.2. Kết quả ở bảng 4.2 cho thấy tổng hạng trung bình của nhóm 0 (nhóm công ty không công bố giá mua) là 41,59, trong khi đó tổng hạng trung bình của nhóm 1 (nhóm công ty công bố giá mua) là 54,88. Với mức ý nghĩa 5% (p-value = 0,021) ta có thể kết luận nhóm công ty công bố giá mua có tăng trưởng trung bình giá trị thị trường cao hơn tăng trưởng trung bình giá trị thị trường của nhóm công ty không công bố giá mua.
5. Kết luận
Kết quả của nghiên cứu cho thấy thông tin lợi thế thương mại có ảnh hưởng đến tăng trưởng trung bình giá trị thị trường của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Mức độ phức tạp của thông tin công bố có ảnh hưởng đến phản ứng của nhà đầu tư. Nhà đầu tư dễ nhận diện thông tin đơn giản như thông tin lợi thế thương mại tăng thêm và thông tin giá mua. Do đó, những thông tin này ảnh hưởng đến giá trị thị trường của các công ty niêm yết. Trong khi đó, với các thông tin phức tạp hơn như thông tin giá trị tài sản thuần của công ty con sử dụng để tính lợi thế thương mại thì nhà đầu tư chưa phân biệt được sự khác biệt giữa giá trị hợp lý và giá trị ghi sổ của công ty con nên phản ứng của họ đối với thông tin này là chưa rõ ràng. Kết quả tăng trưởng trung bình giá trị thị trường của các nhóm này không có sự khác biệt.
Tải xuống tài liệu học tập PDF miễn phí
[sociallocker id=”19555″] Tải Xuống Tại Đây [/sociallocker]