Văn mẫu Thuyết minh về Hoàng Đức lương và tựa Trích diễm thi tập
Mọi ý kiến đóng góp xin gửi vào hòm thư: [email protected]
Tổng hợp các đề cương đại học hiện có của Đại Học Hàng Hải: Đề Cương VIMARU
Kéo xuống để Tải ngay đề cương bản PDF đầy đủ: Sau “mục lục” và “bản xem trước”
(Nếu là đề cương nhiều công thức nên mọi người nên tải về để xem tránh mất công thức)
Đề cương liên quan:Văn mẫu Giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh
Tải ngay đề cương bản PDF tại đây: Văn mẫu Thuyết minh về Hoàng Đức lương và tựa Trích diễm thi tập
Văn mẫu lớp 10
Thuyết minh về Hoàng Đức lương và tựa Trích diễm thi tập
BÀI LÀM
Nói đến Hoàng Đức Lương là phải nói đến bộ sách Trích diễm thi tập.Bộ sách
khép lại cả một thời kỳ dài sưu tập thơ văn Lý – Trần từ Phan Phu Tiên với Việt
âm thi tập đến Dương Đức Nhan với Tinh tuyển chư gia luật thi. Ý nghĩa của
Trích diễm thi tập xưa nay từng được đánh giá rất cao, ở chỗ sau chính sách hủy
diệt văn hóa tàn khốc của nhà Minh hồi đầu thế kỷ XV, thì đến thập niên cuối
thế kỷ, Hoàng Đức Lương đã có công tìm kiếm, lưu chép cho hậu thế đến 15
cuốn (trên thực tế chỉ còn 6 cuốn) về thi ca các triều đại trước Lê sơ. Sau này
nhiều nhà sưu tầm, nghiên cứu khác từ cổ đến cận, hiện và đương đại cũng đã
phải dựa vào đó rất nhiều để tiếp tục bồi đắp vốn văn chương cổ. Do đó, ngoài ý
nghĩa văn học sử, Trích diễm thi tập còn có ý nghĩa to lớn đối với văn hóa, văn
hiến nước nhà.
Trước hết, tác giả nêu bật được một quan niệm về thơ bằng cách dùng hình ảnh
so sánh thú vị: “Đối với thơ ca, người xưa thường ví với nem chả, hoặc ví với
gấm vóc. Nem chả là vị rất ngon ở đời, gấm vóc là mầu rất đẹp ở đời. Phàm
người có miệng, có mắt, ai cũng quý trọng, mà không vứt bỏ khinh thường. Có
điều là: sắc đẹp của thơ lại ở ngoài mọi sắc đẹp, mắt thường không thấy được;
cũng vậy, vị ngon của thơ lại ở ngoài mọi vị ngon, miệng thường không nếm
thấy. Chỉ có thi nhân mới có thể thấy được sắc đẹp đó, nếm được vị ngon đó”.
Như thế Hoàng Đức Lương cho rằng thơ là phải đẹp, mà phải “ở ngoài mọi sắc
đẹp”, nghĩa là cái đẹp thông thường theo quan niệm của người đời là không thể
so được.. Vậy, vẻ đẹp của thơ phải là vẻ đẹp mang tính vĩnh cửu, nó không bị
biến chất, không bị mọi thứ tư duy thông thường xâm thực. Thơ không theo quy
luật chung của cái đẹp thông thường. Thơ đã thế, người làm ra thơ cũng là loại
người đặc biệt khác thường mới có thể “thấy” và “nếm” được thơ. Ở đây, theo
quan niệm của Hoàng Đức Lương thì thi nhân vừa là người sáng tác, vừa là
người thưởng thức, phê bình. Quan niệm như thế nên khi làm sách Hoàng Đức
Lương chỉ Trích diễm, tức là chỉ chọn lựa cái hay, cái đẹp. Xem qua có vẻ như
tác giả đã “tuyệt đối hóa” vai trò của thơ và của thi nhân, nhưng ngẫm kỹ thì
dường như ông đã có lý. Thơ đối với cổ nhân đúng là một địa hạt đặc biệt, sau
này Ngô Thì Sĩ cũng cho rằng kẻ phàm không vào thơ được.Hơn nữa, quan
niệm của Hoàng Đức Lương còn tiến một bước xa trên con đường nhận thức
thơ. Khi viết Tựa cho Việt âm thi tập vào năm 1433,
Nhưng rõ ràng, cạnh việc nói chí thì thơ bao giờ cũng là địa hạt của xúc cảm
thẩm mĩ, của cái đẹp. Có thể Hoàng Đức Lương còn đi xa hơn cả quan niệm của
chúng ta hiện nay khi ông cho rằng cái đẹp của thơ còn “ở ngoài mọi sắc đẹp”
như đã nói trên.
Tiếp theo, bài Tựa còn đưa ra quan niệm về sự tiếp nhận, lưu truyền văn học, về
thi học và phần nào là vấn đề tự do văn học. Sự tiếp nhận văn học, nói như ngôn
từ hiện nay, thì ở người xưa là việc thẩm bình, cái mà tác giả đã gọi là nếm và
thấy. Tức là yêu cầu người tiếp nhận phải có cả năng khiếu và năng lực, cũng có
ý chỉ người tiếp nhận phải ở một trình độ cao, phải có một tầm đón nhận tương
xứng. Biết sáng tác thơ và hiểu thơ là khó, nhưng tác giả vẫn muốn công việc
sưu tập của mình “cốt được truyền bá rộng” di sản thơ Lý – Trần. Hẳn là có
khao khát muốn bồi bổ, nâng cao năng lực tư duy, năng lực thẩm mĩ cho các thế
hệ người đọc bằng thơ. Khái niệm thi học mà Hoàng Đức Lương dùng có ý chỉ
cách học, phép làm thơ, nhưng cũng có thể hiểu là việc nghiên cứu tìm hiểu thi
ca (Đức Lương thi học duy thị Đường chi bách gia – Thi học của Đức Lương
tôi, duy chỉ dựa vào các thi gia đời Đường). Lê Quý Đôn rất tinh tường khi nói
về Hoàng Đức Lương là người cực thích thi học (“khốc hiếu thi học”). Do đó,
có thể thấy ngay từ thế kỷ XV, Hoàng Đức Lương đã nói đến vấn đề thi học,
một trong những vấn đề cốt tử của thi ca.
Khái niệm thi học bấy giờ nghĩa có thể chưa rộng như ngày nay, nhưng quả là
cái gốc rễ thì đã thấy rõ. Bài Tựa cũng nêu ra một thực tế: “Qua sách vở thời Lý
– Trần truyền lại đến ngày nay, chỉ thấy sách nhà chùa là nhiều.
Thật ra, đâu có phải vì các nhà Nho học không giỏi bằng các nhà Phật học. Mà
chính là trong nhà chùa không có sự cấm đoán in sách, cho nên mới có bản khắc
truyền về sau.
Còn thơ ca của các nhà Nho nếu như chưa được nhà vua cho phép, thì không
được in ra để lưu hành” (4). Đó là sự chặt chẽ và lề luật quá nghiêm khắc đương
thời.
Toàn bộ thơ văn phải qua tay kiểm duyệt của một ông vua. Mặc dù nhà vua có
cả một đội ngũ để giúp việc, nhưng việc “dắt bò qua cổ chai” đó đã khiến thơ
văn mất hẳn sinh sắc. Người sáng tác lúc nào cũng nơm nớp húy phạm, nơm
nớp câu chuyện “văn tự ngục”.