Câu Hỏi Ôn Tập Hỗ Trợ Tài Chính Công

0
8382
QUẢNG CÁO
Vài Phút Quảng Cáo Sản Phẩm


Câu 11: Trình bày các vấn để cơ bản về thu ngân sách nhà nước? Các nhân tố ảnh  hưởng đến thu ngân sách nhà nước? Thực trạng các nhân tố này ở Việt Nam

Ë Các vấn đề cơ bản về thu ngân sách nhà nước

Điều 1 khoản 2 Luat NSNN qui định: Thu ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí; các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước; các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân; các khoản viện trợ; các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.

Xét về bản chất, thu ngân sách Nhà nước là hệ thống những quan hệ kinh tế giữa Nhà nước vói các chủ thể  xã hội khác nhau trong quá trình thiết lập, tạo lập có kế hoạch quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nứơc nhằm thực hiện chức nằng quản lí của Nhà nước, từng bước phát triển sự nghiệp văn hóa – xã hội, duy trì hoạt động của bộ máy quản lý Nhà nước và đảm bảo an ninh quốc phòng.

  1. Đặc điểm thu ngân sách nhà nước
  • Mức thu ngân sách phụ thuộc vào ý chí của nhà nước
  • Mức thu ngân sách chịu sự tác động của nhiều nhân tố.
  • Các nhân tố tác động đến mức thu ngân sách có thể kể đến GDP, mức độ trang trải các khoản chi phí của Nhà nước, tổ chức bộ máy thu nộp và các phạm trù giá trị khác như: giá cả, lãi suất.
  • Thu ngân sách là một công cụ tài chính để quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế xã hội, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của từng địa phương mà mức thu ngân sách có thể thay đổi.
  1. Nguyên tắc thu ngân sách nhà nước
  • Nguyên tắc thực hiện thu NSNN phải đảm bảo đúng theo qui định:
  • Nguyên tắc trao đổi thông tin thu ngân sách Nhà nước:
  • Nguyên tắc  hoạch toán NSNN:
  • Nguyên tắc linh hoạt trong hoạt động thu NSNN:
  • Nguyên tắc thực hiện tiết kiệm và có hiệu quả:
  1. Nội dung các khoản thu

Thu ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí; các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước; các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân; các khoản viện trợ; các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.        (trích chương 1, điều 2, khoàn 1 luật NSNN)

  1. Thuế, phí và lệ phí

Thuế là khoản đóng góp bắt buộc của các thể nhân và pháp nhân vào nhà nước. Đây là một nguồn thu quan trọng và chủ yếu của nhà nước. Đối với Việt Nam, trong năm 2009, thuế đóng góp 86% cho ngồn thu ngân sách nhà nước.

– Các khoản thu mang tính chất thuế: phí và lệ phí

-Phí: là các khoản thu của ngân sách nhà nước để bù đắp lại tiền nhà nước đã chi để xây dựng các công trình phục vụ nhân dân, hỗ trợ việc quản lí nhà nước. Ở nước ta có nhiều loại phí: phí giao thông, phí cầu phà, học phí ở trường công…

Quảng Cáo

-Lệ phí: là các khoản thu của ngân sách nhà nước đối với các tổ chức cá nhân được nhà nước phục vụ công việc hành chính. Ở nước ta có nhiều loại phí: lệ phí trước bạ, lệ phí thi, lệ phí toàn án…

b.Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước

– Thu lợi túc từ liên doanh, liên kết, thu cổ tức. Hiện nay Nhà nước đang đẩy mạnh tiến    trình cổ phần hóa doanh ngiệp nhưng vẫn giữ lại số cố phần nhất định, do đó khoản thu này có xu hướng gia tăng trong tổng thu NSNN

-Thu vốn của nhà nước tại các co sở kinh tế: là khoảng thu hồi vốn của Nhà nước.

-Thu hồi tiền vay của Nhà nước

-Thu về sử dụng vốn ngân sách: là số thu trên số vốn ngân sách hoặc vốn có nguồn gốc từ vốn ngân sách. Có thề coi đây là lợi nhuận sau thuế có được khi tổ chức sản xuất kinh doanh sử dụng vốn ngân sách nhà nước.

-Thu từ cho thuê hoặc bán tài nguyên thiên nhiên: cho thuê đất công, vùng trời, vùng        biển, bán các loại khoáng sản…

  1. Các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân

– Viện trợ: bao gồm viện trợ không hoàn lại. Đối với Việt Nam, các khoản viện trợ không hoàn lại từ các quốc gia phát triển, đặc biệt là Nhật Bản, là một nguồn vốn quan trọng, bổ sung đáng kể vào nguồn vốn phục vụ đầu tư phát triển do đó nhà nước cần tranh thủ sử dụng nguồn vốn này sao cho có hiệu quả.

Các khoản vay nợ và viện trợ có hoàn lại không tính vào thu NSNN(theo Nghị định 60/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003 của Chính phủ và Thông tư 59/2003/TT-BTC ngày 23/6/2003 của Bộ Tài chính)

  1. .Các khoản thu khác: thu kết dư ngân sách năm trước, các di sản nhả nước được hưởng, các khoản tiền phạt…

Ë Các nhân tố ảnh hưởng đến thu NSNN và thực trạng ở VN

  1. Nhân t GDP bình quân đu người.
    Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế cảu một quốc gia, phản ảnh khả năng tiết kiệm, đầu tư, chi tiêu của các tổ chức, đơn vị kinh tế và cá nhân dân cư. Thu nhập bình quân đầu người là nhân tố quyết định đến mức động viên ngân sách nhà nước. Nếu không xét đến nhân tố này sẽ có tác động không tốt đén các vấn đề về chi tiêu, đầu tư, tiết kiệm của các tổ chức kinh tế và tầng lớp dân cư trong xã hội.
    2. T sut doanh li trong nn kinh tế
    Tỷ suất doanh lợi trong nền kinh tế phản ánh hiệu quả của đầu tư phát triển kinh tế. Tỷ suất doanh lợi cao thì nguồn tài chính càng lớn từ đó nguồn động viên vào NSNN càng nhiều.
    Dựa vào tỷ suất doanh lợi trong nền kinh tế để xác định tỷ suất thu NSNN. Hiện nay tỷ suất doanh lợi của nước ta còn thấp nên mức động viên vào ngân sách nhà nước chưa cao.
    3. Tim năng tài nguyên thiên nhiên ca đt nước
    Đối với các nước đang phát triển và những nước có nguồn tài nguyên đa dạng và phong phú thì tài nguyên thiên nhiên có ảnh hưởng đến mức động viên NSNN. Kinh nghiệm của VN cho thấy, nếu tỷ trọng xuất khẩu dầu thô và khoáng sản lớn hơn 20% thì mức động viên NSNN cao và có khả năng tăng nhanh. Trong thời gian tới VN sẽ tăng cường xuất khẩu dầu thô và khoáng sản từ đó góp phần vào tăng mức động viên NSNN.
    4. Mc đ trang tri các khon chi phí ca nhà nước
    Nhân tố này ảnh hưởng vào:
    – Quy mô tổ chức bộ máy nhà nước và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.
    – Nhiêm vụ kinh tế -xã hội mà nhà nước đảm nhiệm trong từng thời kỳ.
    – Chính sách sử dụng kinh phí của nhà nước.
    Trong điều kiện các nguồn tài trợ cho NSNN không tăng thì việc nhà nước tăng mức độ chi phí của NN sẽ làm tăng tỷ suất thu NSNN.
    Ở hầu hết các nước đang phát triển thì nhà nước luôn tham vọng đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế bằng việc đầu tư vào những công trình có quy mô lớn. Để có vốn đầu tư thì phải tăng thu. Nhưng trong thực tế tăng thu quá mức lại làm chậm tốc độ phát triển kinh tế – xã hội. Đê giải quyết vấn đề này nhà nước cần sử dung các chính sách phát triển kinh tế xã hội có hiệu quả trên cơ sở nghiên cứu khoa học và hoạt động thực tiễn.
    5. T chc b máy thu np
    Tổ chức bộ máy thu nộp phải gọn nhẹ, đạt hiệu quả cao, tránh được tình trạng thất thu thuế, trốn thuế, lậu thuế…. những nhân tố sẽ làm giảm thu của NSNN.

Câu 12: Để tăng cường QLNN về thuế cần phải làm tốt những công việc gì? Liên hệ thực tiễn tại Việt Nam?

Thuế là nguồn thu chủ yếu của mỗi quốc gia, đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế-xã hội mỗi nước. Do đó công tác quản lý nhà nước về thuế luôn được xem là vấn đề trọng điểm.

Để tăng cường QLNN về thuế cần thực hiện được các mục tiêu sau:

  • Sữa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống chính sách thuế, luật thuế, luật quản lý thuế; đảm bảo công bằng, hiệu quả, phù hợp với môi trường hội nhập. thực tế ở VN với hoàn cảnh tình hình kinh tế nhiều biến động, lạm phát lên cao nên luật thuế thu nhập cá nhân không còn phù hợp, do đó ngày 2-3-2011, Chính phủ đã thông qua chương trình bổ sung về việc sửa đổi luật, pháp lệnh năm 2011 và 2012, trong đó có bổ sung việc sửa đổi Luật thuế thu nhập cá nhân (dự kiến trình Quốc hội vào năm 2012).
  • Cải cách thủ tục hành chính thuế, áp dụng công nghệ thông tin vào công tác cải cách hành chính thuế, nhằm nâng cao hiệu quả, tiết kiệm chi phí và đảm bảo tính minh bạch trong công tác quản lý thuế.

Tổng cục Thuế sẽ dành 3.200 tỷ đồng để thực hiện kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) giai đoạn 2011-2015. Trong năm 2011, ngành sẽ đầu tư khoảng 600 triệu đồng để thực hiện kế hoạch này.
Mục tiêu của ngành thuế là đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong các hoạt động quản lý thuế, giúp minh bạch hóa thủ tục thuế nhằm phục vụ người nộp thuế và doanh nghiệp tốt hơn. Khi hoàn thành kế hoạch này, dịch vụ kê khai thuế điện tử sẽ được cung cấp cho 90% doanh nghiệp và số người nộp thuế điện tử sẽ đạt 80%.
Bên cạnh đó, ngành thuế sẽ cung cấp thông tin tra cứu hỗ trợ người nộp thuế 24/24 giờ. Tổng cục Thuế cũng đã xác định rõ lộ trình thực hiện ứng dụng CNTT trong 5 năm tới. Theo đó, năm 2011-2012, ngành sẽ đẩy mạnh cung cấp dịch vụ thuế điện tử và nâng cao năng lực xử lý thông tin. Từ năm 2013 đến 2015, ngành sẽ triển khai đồng bộ các dự án hiện đại hóa hạ tầng CNTT, cung cấp dịch vụ khai thuế điện tử trên toàn quốc…

  • Tái sắp xếp bộ máy quản lý thuế, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ thuế

Theo Quyết định số 76/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ từ năm 2007nước ta đã tiến hành sắp xếp lại bộ máy của cơ quan thuế các cấp, theo đó hình thành hệ thống quản lý thuế theo hướng chuyên sâu, chuyên nghiệp, tạo điều kiện áp dụng, phát triển ứng dụng tin học vào từng chức năng quản lý và hạn chế tiêu cực do cách quản lý khép kín gây ra.

Đi đối với việc sắp xếp, luân phiên luân chuyển cán bộ đã đẩy mạnh việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công chức thuế về nghiệp vụ quản lý thuế, phong cách ứng xử, đạo đức nghề nghiệp, ngoại ngữ, ứng dụng tin học… Tăng cường công tác kiểm tra việc chấp hành nhiệm vụ, công vụ, phát hiện, uốn nắn và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực của cán bộ thuế.

  • Tuyên truyền và hỗ trợ tổ chức, cá nhân nộp thuế. Để tạo điều kiện cho người nộp thuế thực hiện cơ chế tự khai-tự nộp thuế, những năm qua ngành Thuế đã phối hợp với Ban tuyên giáo các cấp, các cơ quan thông tin đại chúng, coi trọng phát triển phong phú các hình thức tuyên truyền, hướng dẫn, tư vấn cho cộng đồng xã hội và đặc biệt là cho người nộp thuế: báo hình, báo nói, báo viết, đối thoại trực tiếp, trang tin điện tử ngành Thuế, thi tìm hiểu pháp luật thuế…
  • Thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm. Để tăng cường QLNN về thuế, công tác thanh tra kiểm tra việc nộp thuế của người dân và việc thu thuế của cơ quan thuế được đánh giá là nhiêm vụ quan trọng hàng đầu. Luật Quản lý Thuế số 78/2006/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2006 của Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 10 năm 2006 đã quy định chương X- kiểm tra thuế, thanh tra thuế (từ điều 75 đến điều 91). Qui định rõ quyền và nghĩa vụ của người nộp thuế. Cơ quan thu thuế và cán bộ thanh tra đảm bảo rõ ràng minh bạch trong thu nộp thuế. Ngoài ra chương XI: cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế (điều 92 đến 102) và chương XII:xử lý vi pham pháp luật về thuế (điều 103 đến 115) nhằm đưa ra các biện pháp cưỡng chế đảm bảo thực hiện đúng như luật định nhằm ngăn chặn và xử lý kịp thời việc trốn thuế, gian lận thuế và những tiêu cực khác trong thu nộp thuế
  • Quản lý thu nợ thuế.

theo báo cáo của Tổng cục Thuế, tình hình nợ thuế trong năm 2010 có xu hướng giảm dần vào những tháng cuối năm. ngành Thuế tập trung quyết liệt thu hồi nợ đọng của năm 2009, kết quả thu được 67% số nợ thuế của năm này. Tuy nhiên, Tổng cục Thuế cũng thẳng thắn thừa nhận, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác thu nợ thuế còn nhiều hạn chế tồn tại. Một số cục thuế vẫn chưa có phòng quản lý nợ. Việc phân công nhiệm vụ đôn đốc thu nợ thuế dưới 90 ngày cho phòng kiểm tra ở một số cục thuế còn trùng lắp với nhiệm vụ của phòng quản lý nợ. Một số cục thuế chưa kiên quyết thực hiện các biện pháp đôn đốc thu nợ. Bộ phận thanh tra, kiểm tra thuế, bộ phận kê khai và kế toán thuế ở một số cục thuế chưa phối hợp với bộ phận quản lý nợ, trong việc đôn đốc người nộp thuế nộp số thuế bị phát hiện buộc tăng thu (nộp), qua thanh tra, kiểm tra và phạt vi phạm pháp luật thuế, theo các quyết định của cơ quan thuế… Những tồn tại này đã ảnh hưởng đến kết quả thu nợ thuế.

Bước sang năm 2011, Tổng cục Thuế đã giao nhiệm vụ cho các cục thuế địa phương phấn đấu không để tổng số nợ thuế đến thời điểm 31/12/2011 vượt quá 5%, so với số thực hiện thu ngân sách (trừ số nợ thuế được gia hạn, tiền thuế đã nộp vào ngân sách nhưng đang chờ điều chỉnh); thu trên 100% nợ có khả năng thu (đến thời điểm 31/12/2010); giảm 30% nợ chờ xử lý (so với thời điểm 31/12/2010)…

Để hoàn thành được những nhiệm vụ này, Tổng cục Thuế đã chỉ đạo các đơn vị thuế trong cả nước thực hiện triệt để, quyết liệt nhiều giải pháp trọng tâm:

Thứ nhất, về ứng dụng tin học trong quản lý nợ thu nợ thuế, hoàn thiện phần mềm ứng dụng quản lý nợ thuế

Thứ hai, ngành Thuế thực hiện xoá nợ cho các trường hợp nợ thuế trước ngày 1/7/2007 (trên thực tế không còn đối tượng để thu); xoá khoản tiền phạt chậm nộp đối với các doanh nghiệp cam kết thanh toán toàn bộ các khoản tiền nợ thuế gốc phát sinh trước ngày 1/7/2007; nếu không thực hiện đúng cam kết sẽ bị tính phạt chậm nộp và bị cưỡng chế nợ thuế để khuyến khiách các doanh nghiệp nộp hết các khoản nợ gốc; bỏ quy định phải có tờ khai quyết toán thuế đối với trường hợp doanh nghiệp đã có quyết định tuyên bố phá sản của toà án, theo Luật Quản lý thuế.

Thứ ba, ngành Thuế gia hạn nợ thuế đối với người nộp thuế kinh doanh thua lỗ, gặp khó khăn về tài chính nhưng có cam kết trả nợ để khuyến khích người nộp thuế thanh toán hết nợ gốc

Thứ tư, ngành Thuế tiến hành nghiên cứu và ban hành các quy chế phối hợp giữa các bộ phận trong công tác quản lý nợ (để khắc phục hnạ chế về tổ chức bộ máy); bổ sung những nội dung qui định về thủ tục, trách nhiệm của cơ quan thuế trong việc thực hiện đôn đốc thu nợ thuế…

Thứ năm, tăng cường đôn đốc thu nợ thuế trên cơ sở triển khai nghiên cứu phương pháp đánh giá rủi ro, phân loại người nợ thuế để áp dụng các năm sau này; tiến hành bổ sung, sửa đổi các quy định trong công tác quản lý nợ; thống nhất quy trình quản lý nợ cho tất cả các đối tượng nợ thuế trong phạm vi cả nước.

Thứ sáu, các đơn vị tổ chức một bộ phận chuyên trách để thực hiện theo dõi việc thực hiện cưỡng chế nợ thuế trong cơ quan thuế. Bên cạnh đó, ngành Thuế tổ chức bồi dưỡng chuyên sâu theo từng chức năng quản lý cho cán bộ thuế để trang bị kiến thức chuyên sâu, chuyên ngành, kỹ năng thành thạo và kinh nghiệm

Câu 13:          Các nguyên tắc xây dựng hệ thống thuế tại Việt Nam? Các nguyên tắc này được vận dụng ở Việt Nam như thế nào.

Tùy theo trình độ phát triển kinh tế, chính trị và xã hội mà hệ thống thuế ở mỗi quốc gia được cấu thành bởi các sắc thuế có phạm vi điều chỉnh và mục tiêu riêng. Nhưng xét tổng quát chúng được xây dựng và thực thi dựa trên nền tảng một số nguyên tắc nhất định, mà không thể tùy tiện.

Do có nhiều nguyên tắc nên chúng tôi tạm thời chia chúng thành hai nhóm: nhóm nguyên tắc hành chính và nhóm nguyên tắc mang tính kinh tế.

  1. Nguyên tắc hành chính

Nguyên tắc quốc tịch

Nguyên tắc quốc tịch phát biểu rằng mỗi công dân phải có nghĩa vụ đóng thuế cho đất nước. Nguyên tắc này làm cơ sở cho quy định đánh thuế lên khoản thu nhập phát sinh ngoài nước của doanh nghiệp Việt Nam và của công dân Việt Nam.

Nguyên tắc quốc tịch không chỉ nêu rõ nghĩa vụ công dân mà còn bảo vệ công dân của một nước khỏi nghĩa vụ thuế của quốc gia khác, tức là “dân xứ nào phải và chỉ nộp thuế cho xứ đó” mà thôi, nếu như họ không có thu nhập phát sinh ở một xứ nào khác.

Nguyên tắc minh bạch

Thuế làm thu nhập chuyển dịch bắt buộc và không ngang giá từ khu vực tư vào ngân sách nhà nước. Vậy nên, thuế phải minh bạch và được giải thích cũng như hướng dẫn thống nhất cả nước. Nguyên tắc này cũng đòi hỏi chính phủ phải công bố cho dân chúng biết thuế đã được sử dụng như thế nào. Những khoản thuế ngầm (như lạm phát) và thuế tương lai (như nợ công) cũng phải minh bạch. Sự không minh bạch trong thuế khóa là nguyên nhân dẫn đến những căn bệnh như: bất bình đẳng, tham những, lạm thu,….đồng thời làm suy yếu tính pháp định của thuế.

Nguyên tắc này thể hiện tại Khoản 3 Điều 4 của Luật Quản lý thuế: “Việc quản lý thuế phải bảo đảm công khai, minh bạch, bình đẳng; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người nộp thuế”.

Nguyên tắc trọng pháp (Nguyên tắc pháp định)

Thuế phải do quốc hội thông qua do đó nó đương nhiên là một đạo luật, kể cả cơ quan quản lý thuế lẫn đối tượng nộp thuế và những bên có liên quan đều bị chi phối và buộc phải chấp hành. Chính phủ thường có nhiều lý lẽ và đủ sức mạnh hành thu, nên nguyên tắc này nhằm ngăn chặn chính phủ và chính quyền địa phương tự ý đặt ra các khoản thu đối với người dân và bảo vệ dân chúng trước những nguy cơ lạm thu của cơ quan hành pháp. Điều đó có nghĩa là, về mặt nguyên tắc, mọi sắc thuế không được ban hành dưới hình thức một đạo luật thì không có giá trị và không có khả năng ràng buộc đối với người đóng thuế — cử tri. Và, ngay cả cơ quan quản lý thuế cũng có khả năng bị kiện nếu làm trái luật. Điều 116 Luật quản lý thuế ghi: “1. Người nộp thuế, tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại với cơ quan quản lý thuế hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc xem xét lại quyết định của cơ quan quản lý thuế, hành vi hành chính của công chức quản lý thuế khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình; 2. Công dân có quyền tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật về thuế của người nộp thuế, công chức quản lý thuế hoặc tổ chức, cá nhân khác.”

  1. Nguyên tắc mang tính kinh tế

Khi một khoản thuế được ban hành nó không chỉ điều chỉnh nghĩa vụ và hành vi công dân mà sẽ tác động đến phân phối và/hoặc tái phân phối thu nhập giữa chính phủ và khu vực tư, giữa các nhóm dân cư với nhau. Do đó, dù khoác bên ngoài hình thức luật hay pháp lệnh, thuế nói chung có những ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế-xã hội của đất nước, nên pháp luật thuế cùng với pháp luật ngân sách đã trở thành một lĩnh vực pháp luật tương đối độc lập cần phải được tiếp cận đồng thời từ hai góc độ: góc độ kinh tế và góc độ pháp lý.

Phần tiếp theo sẽ thảo luận những nguyên tắc mang tính kinh tế.

Nguyên tắc nguồn gốc (nguyên tắc lãnh thổ)

Bất luận thu nhập được tạo ra bởi công dân mang quốc tịch nào, hễ phát sinh trong khuôn khổ lãnh thổ quốc gia nào thì phải nộp thuế cho chính phủ nuớc chủ nhà bởi những bảo hộ, bảo đảm và tiện ích công cộng mà nước chủ nhà đã cung cấp. Đây chính là cơ sở của Điều 2 của Luật Thuế Thu nhập cá nhân: “ Đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân là cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam và cá nhân không cư trú có thu nhập chịu thuế phát sinh trong lãnh thổ Việt Nam”.

Trườn hợp xuất hiện xung đột giữa nguyên tắc quốc tịch và nguyên tắc nguồn gốc thì các quốc gia và vùng lãnh thổ sẽ thỏa thuận tránh đánh thuế hai lần bằng một hiệp định. Hiệp định không tạo ra các nghĩa vụ thuế mới, khác hoặc nặng hơn so với luật thuế trong nước. Ví dụ: trường hợp tại Hiệp định có các quy định theo đó Việt Nam có quyền thu thuế đối với một loại thu nhập nào đó nhưng Luật thuế Việt Nam chưa có quy định thu thuế đối với thu nhập đó hoặc quy định thu với mức thấp hơn thì áp dụng theo quy định của Luật thuế Việt Nam. Khi Việt Nam thực hiện các quy định tại Hiệp định, vào từng thời điểm nhất định các từ ngữ chưa được định nghĩa trong Hiệp định sẽ có nghĩa như quy định tại luật của Việt Nam theo mục đích thuế tại thời điểm đó, trừ trường hợp ngữ cảnh đòi hỏi có sự giải thích khác.

Nguyên tắc nguồn gốc cũng thể hiện tại Điều 28 — Thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn của Luật Thuế Thu nhập cá nhân: “Thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn của cá nhân không cư trú được xác định bằng tổng số tiền mà cá nhân không cư trú nhận được từ việc chuyển nhượng phần vốn tại tổ chức, cá nhân Việt Nam nhân với thuế suất 0,1%, không phân biệt việc chuyển nhượng được thực hiện tại Việt Nam hay tại nước ngoài”.

Nguyên tắc trung lập (không gây thương tổn)

Nguyên tắc này đòi hỏi thuế không được ảnh hưởng đến sản xuất xã hội, không gây biến dạng các hoạt động kinh tế. Những biện pháp khuyến khích đầu tư thông qua thuế của chính phủ không thiên vị cho những dự án đạt lợi ích xã hội thấp. Theo Luật Thuế Thu nhập cá nhân, lợi tức sinh ra từ tiền gửi các tổ chức tín dụng không chịu thuế, nhưng lợi tức sinh ra từ các khoản cho doanh nghiệp vay (dưới hình thức trái phiếu doanh nghiệp) thì lại chịu thuế. Như vậy, chúng ta dễ dàng thấy Chính phủ thiên vị cho các tổ chức tín dụng và ngăn chặn khả năng vay trực tiếp công chúng của doanh nghiệp. Bằng quy định này, Chính phủ gián tiếp duy trì mức giá cao của tiền tệ, khuyến khích các hoạt động tín dụng của tổ chức tín dụng hơn hoạt động tín dụng của các doanh nghiệp.

Nguyên tắc công bằng và bình đẳng

Nguyên tắc công bằng nói ở đây là công bằng theo khả năng nộp thuế (ability-to-pay) chứ không phải theo mức thụ hưởng. Công bằng theo khả năng nộp thuế có nghĩa là số thuế phải tỉ lệ với thu nhập. Như vậy thu nhập cao thì nộp nhiều, thu nhập thấp thì nộp ít và thu nhập chưa vượt qua ngưỡng thì tạm thời chưa nộp. Sử dụng nguyên tắc này trong thực tiễn, chính phủ buộc người có thu nhập càng cao càng phải hy sinh mức hữu dụng từ thu nhập theo một tỷ lệ nhiều hơn.

Nguyên tắc bình đẳng đòi hỏi địa vị thuế của mỗi chủ thể phải ngang nhau hoặc mỗi đối tượng nộp thuế phải được đối xử không thiên vị. Đóng thuế là trách nhiệm công dân, là nghĩa vụ của mọi người bất kể giới tính, tuổi tác, nghề nghiệp và địa vị xã hội.

Cho đến cuối năm 2008, phân phối gánh nặng thuế thu nhập cá nhân ở nước ta thể hiện bất bình đẳng rất lớn. Theo bà Nguyễn Thị Cúc — nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế, thành viên Ban Soạn thảo Dự Luật thuế TNCN[6], với mức khởi điểm 5 triệu đồng, hiện số người nộp thuế thu nhập cao từ tiền lương, tiền công mới hơn 300.000 người, chỉ bằng 1,36% lực lượng lao động phi nông lâm nghiệp hoặc 0,68% toàn lực lượng lao động hay 0,35% dân số Việt Nam[7]. Nếu áp dụng giảm trừ cá nhân và người phụ thuộc như dự thảo luật thì trong thời gian đầu số người nộp thuế này có thể giảm. Điều này cho thấy tuyệt đại bộ phận dân số Việt Nam vẫn chưa bị thuế chi phối. Đó là bất công đối với những người đang nộp thuế.

Dẫn chứng thứ hai về bất bình đẳng. Theo số liệu từ (1) Ban đổi mới doanh nghiệp, Bộ Công Thương, (2) Thời báo Kinh tế Sài Gòn số 45-2008 (933) ngày 30 tháng 10 năm 2008, trang 1 và (3) Điều tra doanh nghiệp năm 2006, Tổng cục Thống kê, doanh nghiệp nhà nước kiểm soát hơn 54% tổng vốn quốc gia, nhưng chỉ đóng góp 41% số thu thuế và tạo ra một gánh nặng nợ bằng 70% tổng nợ quốc gia.

Dẫn chứng thứ ba. Theo Thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày 30 tháng 09 năm 2008 hướng dẫn thi hành thuế thu nhập cá nhân, thu nhập tính thuế của cá nhân cư trú bằng thu nhập chịu thuế từ kinh doanh và từ tiền lương, tiền công sau khi trừ đi (1) khoản giảm trừ gia cảnh, (2) các khoản đóng bảo hiểm bắt buộc và (3) khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo, khuyến học. Như vậy, nếu một cá nhân kinh doanh muốn mua bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội cho chính bản thân mình thì đây là tự nguyện và sẽ không được trừ khỏi thu nhập tính thuế. Hướng dẫn này dễ khiến người ta suy đoán Chính phủ chưa ‘tin’ người dân, chưa khuyến khích tính tự nguyện tự giác của dân chúng. Đây là một biểu hiện của sự không tôn trọng quyền tự do công dân.

Khó có hệ thống thuế của quốc gia nào tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc nêu trên. Hệ thống thuế ở nước ta cũng vậy. Tuy còn nhiều điểm chưa hoàn thiện song chúng ta dễ nhận ra Nhà nước Việt Nam đang nỗ lực xây dựng một hệ thống thuế tôn trọng những nguyên tắc chung được thừa nhận rộng rãi trên toàn thế giới.

Ngoài ra, ở Việt Nam trong quá trình xây dựng hệ thống thuế nhà nước cũng đã và đang cố gắng đảm bảo các nguyên tắc cơ bản sau:

– Về mặt tài chính thuế phải là phương tiện chủ yếu tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.

– Về mặt kinh tế thuế phải là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.

– Về mặt hành thu phương pháp tính toán các loại thuế phải dễ tính, dễ hiểu, dễ kiểm tra.

– Về mặt xã hội thuế phải thực hiện công bằng xã hội.

– Về mặt pháp lý thuế phải đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong hoạt động thu nộp thuế.

Câu 14: Phương hướng cơ bản hoàn thiện hệ thống thuế khi Việt Nam là thành viên của WTO.

– Cải cách chính sách thuế cần quán triệt quan điểm của Đảng và Nhà nước về đổi mới chính sách thuế “…Tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp với tình hình đất nước và cam kết quốc tế. Bổ sung, hoàn thiện, đơn giản hóa các sắc thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất, không phân biệt doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, doanh nghiệp VN và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Ap dụng thuế thu nhập cá nhân thống nhất và thuận lợi cho mọi đối tượng chịu thuế, bảo đảm công bằng xã hội và tạo động lực phát triển. Hiện đại hóa công tác thu thuế và tăng cường quản lý của Nhà nước.” (Văn kiện Đại hội Đảng lần IX – Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001-2010).
– Chính sách động viên của thuế cần tôn trọng kỷ luật tài chính tổng thể. Nguồn lực tài chính của nền kinh tế là giới hạn, do vậy mức huy động của thuế cũng phải có sự giới hạn. Với thực trạng là một quốc gia đang phát triển, nhu cầu chi tiêu của ngân sách rất lớn và áp lực cân đối ngân sách là không nhỏ, nhưng không phải thuế là tận thu để bao chi. Làm như vậy sẽ phá vỡ tính kỷ luật tài chính tổng thể, gây kìm hãm, không kích thích đầu tư, tiết kiệm của khu vực doanh nghiệp và dân cư. Thuế không vì mục tiêu cân đối ngân sách trước mắt, mà quan trọng phải hướng vào mục tiêu cao hơn và xa hơn đó là thúc đẩy đầu tư, vực dậy nền kinh tế, thoát khỏi tình trạng yếu kém và đuổi kịp các nước trong khu vực.

– Do phải cắt giảm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu theo cam kết của các hiệp định thương mại cho phù hợp với xu hướng hội nhập vào khu vực và thế giới; đồng thời thực hiện chính sách khuyến khích thu hút vốn đầu tư, nên phải có sự điều chỉnh, cắt giảm thuế thu vào nội địa. Với mức thu thuế thấp trong giai đoạn tạo đà cho công nghiệp hóa, nhưng lại kích thích sự phát triển của khu vực doanh nghiệp và dân cư, góp phần thúc đẩy nền kinh tế cất cánh, làm tăng thêm nguồn thu thuế cho ngân sách trong giai đoạn tiếp theo. Thực hiện lộ trình giảm thuế một cách hợp lý và tương thích đối đặc điểm kinh tế trong quá trình hội nhập, có tính tới tương quan và kết cấu mặt hàng xuất nhập khẩu trên các thị trường khác nhau, không làm biến động lớn đến cân đối NSNN.  Điều chỉnh lại thuế suất hàng hóa tiêu thụ nội địa để bù đắp một phần giảm từ thuế xuất nhập khẩu hướng tới việc thăng bằng NSNN.  Vận dụng và xử lý khéo léo rào cản bằng thuế quan trong khuôn khổ cho phép của WTO để bảo hộ sản xuất nội địa vừa khuyến khích phát triển hàng hóa trong nước vừa bảo đảm nguồn thu ngân sách
– Chính sách phải hình thành một cơ cấu thuế hợp lý nhằm tăng cường nguồn thu và vai trò điều tiết vĩ mô của nhà nước. Cải cách thuế cần tập trung vào việc thu hẹp những bóp méo của thuế, đi đôi với việc mở rộng cơ sở thuế và hạ thấp thuế suất. Đồng thời, chính sách thuế phải bao quát hết tất cả nguồn thu, cần đưa vào áp dụng các loại thuế mới để quản lý nguồn thu và năng cao vai trò điều tiết: như thuế tài sản, thuế môi trường.
Cơ cấu của hệ thống thuế phải có những thay đổi thích hợp cho phù với sự phát triển kinh tế. Trong xu hướng hội nhập, thuế đánh vào thương mại quốc quốc tế sẽ giảm dần, thay vào đó chính sách thuế cần nỗ lực gia tăng thuế thu nhập cá nhân để tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước. Đồng thời thuế GTGT cần được tăng cường và kết hợp với thuế TTĐB để điều tiết sản xuất – tiêu dùng và đảm trách tốt vai trò bảo hộ sản xuất trong nước.
– Chính sách thuế phải góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa trong điều kiện VN hội nhập vào khu vực và thế giới. Thực hiện cải cách thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất, minh bạch, trung lập, không phân biệt các thành phần kinh tế; đồng thời tháo dỡ dần chính sách bảo hộ bằng việc xóa bỏ hàng rào phi thuế quan, cắt giảm thuế nhập khẩu sẽ là những bước đi quan trọng nhằm gây sức ép, buộc các doanh nghiệp VN tăng cường đổi mới công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh. Hiện nay các doanh nghiệp VN đang phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt trên thị trường trong nước lẫn quốc tế. Nhu cầu tích tụ vốn để phát triển và đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp là rất lớn và cấp bách. Vì vậy, chính sách thuế cần được điều chỉnh cho hợp lý hơn nhằm khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường tích tụ vốn và đầu tư thay đổi công nghệ, hiện đại hóa sản xuất, hạ thấp giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ, bồi dưỡng nguồn thu, tăng thu nội địa cho NSNN .
– Hệ thống thuế phải đơn giản, ổn định, mang tính luật pháp cao và có sự tương đồng với khu vực và thông lệ quốc tế. Thuế phải được phân nhiệm rõ ràng theo hướng chuyên môn hóa chức năng và thống nhất hóa mục tiêu nhằm khắc phục tình trạng đa mục tiêu trong một sắc thuế. Theo đó, cần đi sâu hoàn thiện các kỹ thuật thu thuế một cách thích hợp và đồng bộ nhằm đảm bảo hiệu quả tối ưu của mỗi loại thuế cũng như cả hệ thống thuế. Các quy định của luật thuế cần đơn giản, rõ ràng phù hợp với trình độ của bộ máy quản lý thuế cũng như người nộp thuế, đảm bảo tính dễ hiểu, dễ chấp hành và dễ kiểm tra. Đồng thời, trong bối cảnh hội nhập, hệ thống thuế VN phải có sự tương đồng với quốc tế về một số loại thuế có liên quan đến thương mại và đầu tư quốc tế.
– Không ngừng hoàn thiện cơ chế hành thu, tạo ra sự chuyển biến về chất trong chính sách thuế và tương đồng với khu vực về trình độ quản lý. Từng bước hiện đại hóa công nghệ quản lý thuế, qua đó xác lập hệ thống dữ liệu về thuế liên tục, chính xác, kịp thời. Tiêu chuẩn hóa cán bộ thuế gắn liền với chế thưởng phạt nghiêm minh. Kiện toàn bộ máy quản lý thuế cho phù với yêu cầu đổi mới chính sách thuế, trong đó xác lập cơ chế phối hợp đồng bộ giữa cơ quan thuế và các cơ quan công quyền để nâng cao hiệu quả công tác hành thu. Tăng cường sự giáo dục tuyên truyền; nâng cao ý thức của công chúng về ý thức chấp hành chính sách thuế; từng bước đưa thuế trở thành chuẩn mực đạo đức trong cuộc sống xã hội. Trên cơ sở đó, tiến tới thay đổi cơ chế hành thu thuế theo hướng nâng cao tính tự chịu trách nhiệm của người nộp thuế trong việc kê khai và nộp thuế cho Nhà nước, đi đôi là kiên quyết thực hiện các biện pháp xử lý về vi phạm nộp thuế để giảm bớt những xói mòn của thuế. Cơ quan hành thu có đầy đủ quyền lực để tăng cường thực thi luật thuế.

Câu 15: Phân tích những nội dung cơ bản của QLNN về chi NSNN? Vì sao phải chú trọng tới nguyên tắc thực hành tiết kiệm?

Những nội dung cơ bản của QLNN về chi NSNN:

  1. Khái niệm chi NSNN:
  2. Các nội dung quản lý chi NSNN
  3. Đặc điểm chi NSNN
  4. Nguyên tắc chi NSNN
  5. Điều kiện chi NSNN
  6. Chi NSNN gồm:
  7. Các nhân tố ảnh hưởng đến chi NSNN
  1. Khái niệm chi NSNN:

Chi NSNN là hoạt động phân phối và sử dụng quỹ NSNN theo dự toán NSNN đã được cơ quan có thẩm quyền quyết định nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước theo những nguyên tắc nhất định.

Chi ngân sách nhà nước là quá trình phân phối lại các nguồn tài chính đã được tập trung vào ngân sách nhà nước và đưa chúng đến mục đích sử dụng. Do đó, Chi ngân sách nhà nước là những việc cụ thể không chỉ dừng lại trên các định hướng mà phải phân bổ cho từng mục tiêu, từng hoạt động và từng công việc thuộc chức năng của nhà nước.

  1. Các nội dung quản lý chi NSNN
  • Lập dự toán, chương trình chi tiêu
  • Thực hiện chi tiêu
  • Kiểm soát chi tiêu
  1. Đặc điểm chi NSNN
  • Chi NSNN gắn với quyền lực nhà nước
  • Chi ngân sách nhà nước gắn với bộ máy nhà nước và những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội mà nhà nước đảm đương trong từng thời kỳ. Cơ quan quyền lực cao nhất – quốc hội là chủ thể chủ yếu và duy nhất quyết định nội dung, cơ cấu và mức độ các khoản chi ngân sách nhà nước.;
  • Các khoản chi của ngân sách nhà nước mang tính chất không hoàn trả trực tiếp;
  • Các khoản chi của ngân sách nhà nước được xem xét hiệu quả trên tầm vĩ mô nhằm quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế – xã hội, nó gắn liền với sự vận động của các phạm trù giá trị khác như giá cả, lãi suất, tỷ giá hối đoái, tiền lương, tín dụng, v.v… (các phạm trù thuộc lĩnh vực tiền tệ), với chi ngân sách trong quá trình thực hiện các mục tiêu kinh tế.
  1. Nguyên tắc chi NSNN
  • Chi phải căn cứ vào khả năng thu
  • Chi tập trung có trọng điểm
  • Nhiệm vụ chi của từng cấp ngân sách phải phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của cấp đó
  • Huy động Nhà nước và nhân dân cùng làm đối với các khoản chi có tính phúc lợi xã hội

Nguyên tắc tổ chức chi ngân sách nhà nước

  • Nguyên tắc thứ nhất: gắn chặt các khoản thu để bố trí các khoản chi;
  • Nguyên tắc thứ hai: đảm bảo yêu cầu tiết kiệm và hiệu quả;
  • Nguyên tắc thứ ba: theo nguyên tắc nhà nước và nhân dân cùng làm, nhất là các khoản chi mang tính chất phúc lợi xã hội;
  • Nguyên tắc thứ tư: tập trung có trọng điểm;
  • Nguyên tắc thứ năm: phân biệt rõ nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của các cấp theo quy định của luật;
  • Nguyên tắc thứ sáu: phối hợp chặt chẽ với khối lượng tiền tệ, lãi suất, tỷ giá hối đoái.
  1. Điều kiện chi NSNN
  • Khoản chi có trong dự toán ngân sách được duyệt
  • Đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định;
  • Đã được thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người được ủy quyền quyết định chi.
  • Có đầy đủ chứng từ liên quan
  • Qua đấu thầu, thẩm định giá đối với chi đầu tư XDCB, mua sắm trang thiết bị
  1. Chi NSNN gồm:(sách cô Lê Thị Mận có nè)
  • Chi đầu tư phát triển
  • Chi thường xuyên
  • Chi dự trữ nhà nước
  • Chi trả nợ gốc tiền vay của Chính phủ
  • Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính
  1. Yếu tố ảnh hưởng đến chi ngân sách nhà nước
  • Chế độ xã hội là nhân tố cơ bản;
  • Sự phát triển của lực lượng sản xuất;
  • Khả năng tích lũy của nền kinh tế;
  • Mô hình tổ chức bộ máy của nhà nước và những nhiệm vụ kinh tế, xã hội của nhà nước trong từng thời kỳ.
  • Vì sao phải chú trọng tới nguyên tắc thực hành tiết kiệm?

 Xử lý bội chi ngân sách nhà nước (NSNN) là một vấn đề nhạy cảm, bởi nó không chỉ tác động trước mắt đối với nền kinh tế mà còn tác động đến sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang có những biến động lớn như: giá dầu tăng cao, khủng hoảng tài chính tại Mỹ, tình trạng lạm phát diễn ra nhiều nước trên thế giới, vấn đề kiềm chế lạm phát đặt ra vô cùng cấp bách không chỉ ở Việt Nam. Vì vậy để xử lý bội chi NSNN cần phải có những biện pháp nhằm “tăng thu, giảm chi”. Riêng đối với chi NSNN thì nhà nước ta cần thắt chặt chi tiêu công dựa trên một loạt những nguyên tắc đã nêu ra ở trên, trong đó nguyên tắc thực hành tiết kiệm phải được đặt lên hàng đầu.

Bởi vì theo thực tế hiện nay, trong công tác chi NSNN vẫn còn những khoản chi bất hợp lý, không đúng đối tượng, dàn trải nên hiệu quả chưa cao; định mức chi thường xuyên phân bổ cho các đơn vị hành chính sự nghiệp còn rất thấp; chi cho sự nghiệp y tế, giáo dục chưa đồng bộ giữa các địa phương, đặc biệt là các huyện miền núi; cơ chế xin-cho chưa được xóa bỏ; chưa đảm bảo sự công bằng trong việc phân bổ ngân sách cho các cơ quan, đơn vị trong tỉnh.

Qua kiểm toán, việc chi đầu tư phát triển vẫn bộc lộ nhiều thiếu sót, bất cập, gây lãng phí cho ngân sách nhà nước. Cụ thể, ngay từ công tác quy hoạch, do thiếu nghiên cứu chi tiết và không phù hợp với quy hoạch tổng thể, quy hoạch vùng nhưng vẫn được phê duyệt dẫn đến việc khi triển khai thực hiện phải dừng hoặc điều chỉnh, bổ sung làm lãng phí NSNN.
Bên cạnh đó, chất lượng công tác lập, thẩm định và phê duyệt dự án còn hạn chế, nên khi thực hiện dự án phải thay đổi tổng mức đầu tư, tổng dự toán nhiều lần làm ảnh hưởng đến công tác kế hoạch hóa vốn đầu tư, kéo dài thời gian thực hiện dự án. Theo ông Lê Minh Khái, Phó tổng Kiểm toán Nhà nước ví dụ Dự án đầu tư xây dựng công trình thoát nước nhằm cải tạo môi trường Hà Nội (dự án II), mặc dù Báo cáo nghiên cứu khả thi đã được UBND Hà Nội chỉ đạo thực hiện, nhưng không được sử dụng gây lãnh phí 1,43 tỷ đồng.
Hiện tượng một số dự án quyết định đầu tư nhưng không có vốn triển khai, quá thời gian quy định phải lập lại dự án làm tăng chi phí đầu tư; chủ đầu tư thiếu tính toán, phân tích trước khi quyết định đầu tư, dẫn đến lựa chọn địa điểm xây dựng không phù hợp, phải dừng dự án gây lãnh phí vốn đầu tư, hoặc xác định quy mô đầu tư vượt quá nhu cầu thực tế, hay đầu tư xong không sử dụng gây lãnh phí NSNN… là hiện tượng vẫn xảy ra. Cụ thể là dự án xử lý nước thải Khu công nghiệp Vĩnh Niệm – Hải Phòng vốn đã cấp phát 3 tỷ đồng và dự án xử lý nước thải Khu du lịch Vịnh Tùng Dinh (Cát Bà, Hải Phòng) vốn đã cấp phát 23,52 tỷ đồng, hoàn thành nhưng không hoạt động; hay như hạng mục vườn ươm Thanh Táo thuộc công trình tuyến tránh Hà Nội – Cầu Giẽ đã đầu tư 1,2 tỷ đồng, nhưng đến nay để hoang là những ví dụ điển hình.
Đặc biệt, tình trạng đầu tư dàn trải, mạnh mún chậm được khắc phục, dẫn đến nhu cầu vốn cho các dự án vượt quá khả năng ngân sách, nhiều dự án phải kéo dài thời gian đầu tư mà dự án đầu tư xây dựng Trường đại học Hàng Hải là một điển hình. Dự án này được triển khai từ năm 1981 đến nay chưa hoàn thành do không bố trí đủ vốn, trong khi đó, tổng nhu cầu vốn cho các dự án của Thành phố Hải Phòng đã được phê duyệt là hơn 12.000 tỷ đồng, nhưng ngân sách hàng năm chỉ có hơn 1.400 tỷ đồng, như vậy kể cả khi Thành phố ngừng toàn bộ các công trình mới thì phải mất 9 năm nữa các công trình đã được phê duyệt mới xây dựng xong.
Bên cạnh đó, tình trạng không phân bổ chi tiết vốn ngay từ đầu năm dẫn đến giải ngân chậm và không chủ động trong triển khai đầu tư, lập kế hoạch, phân bổ vốn chưa chính xác, triển khai thi công chậm hoặc không thực hiện phải điều chỉnh… cũng là những bất cập được ông Khái chỉ ra.
Ngoài ra, tại hầu hết các dự án được kiểm toán, công tác đền bù giải phóng mặt bằng thực hiện chậm làm ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án, tăng chi phí xây dựng, dự án chậm phát huy hiệu quả, gây lãng phí NSNN. Hầu hết các đơn vị được kiểm toán đều vi phạm Luật Đấu thầu, như hồ sơ mời thầu không được bảo mật, thông thầu, dàn xếp thầu giữa các nhà thầu, chia nhỏ gói thầu để chỉ định thầu, chỉ định thầu và đấu thầu hạn chế sai quy định, phê duyệt giá trúng thầu cao hơn giá gói thầu được phê duyệt… cũng gây lãng phí, thất thoát lớn cho NSNN.

Hơn thế nữa, do sự sửa đổi trong luật NSNN là kẻ hở cho địa phương sử dụng NSNN một cách lãng phí và không hiệu quả. Cụ thể là, Theo khoản 3, Điều 8, Luật NSNN năm 1996, ngân sách địa phương được cân đối theo nguyên tắc tổng số chi không vượt quá tổng số thu, trường hợp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có nhu cầu đầu tư kết cấu hạ tầng thì được phép huy động vốn theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ và phải cân đối vào ngân sách địa phương để trả nợ khi đến hạn. Tuy nhiên, Luật NSNN sửa đổi năm 2002 mở rộng thêm quyền chủ động trong việc huy động vốn của ngân sách địa phương. Vay vốn đầu tư thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm do hội đồng nhân dân tỉnh quyết định (không phải theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định như trước đây). Như vậy, mặc dù chúng ta chấp nhận về nguyên tắc là không có việc bội chi ngân sách địa phương nhưng thực tế lại vẫn cho phép địa phương vay để đầu tư và  những khoản vay này còn chưa được quản lý chặt chẽ để quyết toán.

Để khắc phục hạn chế nêu trên, tỉnh cần quản lý chặt chẽ chế độ chi ngân sách, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong việc sử dụng ngân sách; ưu tiên bố trí vốn cho các công trình trọng điểm; đẩymạnh tiến độ quyết toán vốn đầu tư; mở rộng khoán biên chế và chi hành chính sự nghiệp; thực hiện thanh tra, kiểm tra, quyết toán định kỳ; tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng về công tác tài chính…. Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công và chi thường xuyên từ NSNN. Đây là một giải pháp tuy mang tính tình thế, nhưng vô cùng quan trọng với mỗi quốc gia khi xảy ra bội chi NSNN và xuất hiện lạm phát. Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công có nghĩa là chỉ đầu tư vào những dự án mang tính chủ đạo, hiệu quả nhằm tạo ra những đột phá cho sự phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt những dự án chưa hoặc không hiệu quả thì phải cắt giảm, thậm chí không đầu tư. Mặt khác, bên cạnh việc triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công, những khoản chi thường xuyên của các cơ quan nhà nước cũng phải cắt giảm nếu những khoản chi này không hiệu quả và chưa thực sự cần thiết.

 

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here