Câu Hỏi Ôn Tập Hỗ Trợ Tài Chính Công

0
8391
QUẢNG CÁO
Vài Phút Quảng Cáo Sản Phẩm


cÂU HỎI ÔN TẬP HỖ TRỢ TÀI CHÍNH CÔNG


Mọi ý kiến đóng góp xin gửi vào hòm thư: [email protected] 

Tổng hợp các đề cương hiện có của Đại Học Hàng Hải: Đề Cương VIMARU 

Tải ngay đề cương bản PDF tại đây: CÂU HỎI ÔN TẬP HỖ TRỢ TÀI CHÍNH CÔNG

Đề cương liên quan: Tài Chính Tiền Tệ

Câu 16: Các vấn đề đặt ra trong chi tiêu công của Việt Nam hiện nay, phương hướng và biện pháp khắc phục?

VẤN ĐỀ CỦA CHI TIÊU CÔNG

Quảng Cáo
  • Chi tiêu công ởViệt Nam được quản trị theo phong cách truyền thống, rất chính tắc nhưng ít năng động và khá hình thức. Cách làm này đang trở nên lỗi thời, trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới với cả quyền lợi lẫn nghĩa vụ đầy đủ của một thành viên; do đó, cần phải được đổi mới.
  • Quản trị chi tiêu công ở Việt Nam trong thời gian qua đã bộc lộ những tồn tại yếu kém rất cơ bản, xét theo những tiêu chí quản trị khu vực công hiện đại, phổ biến trên thế giới như tính công khai minh bạch chưa cao, trách nhiệm giải trình còn hạn chế, hiệu quả kinh tế – xã hội chưa đạt như mong muốn và đặc biệt chưa có sự tham gia đáng kể của người chủ đích thực của đồng tiền ngân sáchlà nhân dân. Đó chính là căn nguyên của tình trạng “có vấn đề” của hoạt động ngân sách Nhà nước: lãng phí, thất thoát tài sản Nhà nước, tham nhũng… Tình trạng này, như các báo cáo kiểm toán thường niên cho thấy, trên nhiều mặt là đáng lo ngại.
  • Cách phân bổ vốn đầu tư ngân sách thời gian qua còn theo kiểu bao cấp – chia đều, vẫn mang khá nặng dấu ấn của cơ chế xin cho, việc chi tiêu ngân sách chưa thực sự gắn chặt với trách nhiệm đến cùng; chỉ chịu sự ràng buộc của những hình thức chế tài có hiệu lực không cao, kèm theo đó là năng lực bộ máy còn yếu.
  • Tình trạng tăng trưởng nóng, đầu tư cao nhưng kém hiệu quả, dẫn tới lạm phátcao và bất ổn kinh tế vĩ mô vài năm gần đây đi liền với xu hướng gia tăng đầu tư dàn trải, trầm trọng hơn tình trạng lãnh phí, thất thoát, tham nhũng… chứng tỏ hiệu quả thấp của hoạt động thu chi ngân sách và nhiều vấn đề gay gắt đang tồn tại trong lĩnh vực này. Bức tranh ngân sách còn phiến diện. Hiện các khoản thu chi ngân sách nhà nước chưa được phản ánh toàn diện và đầy đủ trong ngân sách nhà nước, làm cho bức tranh ngân sách bị méo mó, phiến diện. Theo một số nghiên cứu, thì có tới 30 quỹ và định chế tài chính các loại chưa được đưa vào cân đối trong ngân sách nhà nước.Từ đó phát sinh yêu cầu đổi mới Luật Ngân sách Nhà nước – thể chế trung tâm của các quá trình ngân sách Nhà nước.
  • Hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước chưa cao cả trong chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên. Nguyên nhân do công tác xã hội hóa, đổi mới cơ chế hoạt động đối với các đơn vị sự nghiệp công lập triển khai vẫn còn chậm, kết quả hạn chế dẫn tới gánh nặng chi ngân sách nhà nước và tình trạng chi tiêu kém hiệu quả, lãng phí chưa được khắc phục…
  • Chi tiêu công là khoản chi lớn tiền công quỹ của Nhà nước, có điều kiện dẫn đến tham ô, lãng phí và người quyết định sử dụng chưa gắn trách nhiệm cá nhân với hiệu quả sử dụng tiền của Nhà nước, thậm chí còn có những hành vi vi phạm những quy định tài chính như chế độ, tiêu chuẩn, định mức, v.vv.. gây thất thoát, lãng phí nguồn tiền lớn của Nhà nước.
  • Quản lý chi tiêu công của Việt Nam hiện nay vẫn dựa vào phương thức quản lý theo các khoản mục đầu vào, chưa chú trọng đến kết quả đầu ra và tác động ảnh hưởng đầu ra trong việc thực hiện các mục tiêu chiến lược quốc gia. Chính việc quản lý theo các yếu tố đầu vào đã không khuyến khích các đơn vị sử dụng ngân sách tiết kiệm vì nó không đưa ra yêu cầu có sự ràng buộc chặt chẽ giữa nguồn kinh phí sử dụng với kết quả cần đạt được ở đầu ra do sử dụng nguồn kinh phí đó. Hay nói cách khác, chưa tạo ra được mối liên kết giữa việc sử dụng ngân sách và kết quả chi tiêu.
  • Trong việc lập dự toán ngân sách hàng năm còn thiếu sự liên hệ chặt chẽ với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội trung hạn và dài hạn, do vậy ngân sách nhà nước của chúng ta vẫn chưa mang tính trung và dài hạn. Nguồn lực phân bổ còn dàn trải, thiếu các tiêu chí để xác định mức ưu tiên trong chi tiêu công. Trong lập dự toán chi thường xuyên và chi đầu tư còn có sự tách rời nên hiệu quả sử dụng nguồn lực công chưa được nâng cao.
  • Cơ chế phân bổ nguồn lực còn kém hiệu quả, chi tiêu công chưa có sự nhạy cảm giới. Các khoản chi tiêu công chưa tính đến những nhu cầu của nam và nữ, do vậy, có nhiều khoản chi lãng phí, không phù hợp thực tế. Ví dụ điển hình là việc chúng ta xây hàng trăm cái chợ nhưng không có người đến họp chợ vì không đáp ứng được nhu cầu của người dân.
  • Định mức chi tiêu công hiện nay còn có những điểm hạn chế như hệ thống định mức đã quá lạc hậu, không phù hợp với thực tế, chậm được sửa đổi, dẫn đến tình trạng các đơn vị không thể sử dụng các định mức này trong việc chi tiêu, trong thực tế các đơn vị thường biến báo các số liệu cho phù hợp với yêu cầu, các định mức chi còn mang tính hình thức trong khâu thanh quyết toán. Một số định mức chi tiêu do trung ương ban hành không còn phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương, các định mức chi tiêu do Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành còn ít và chỉ liên quan đến những khoản chi nhỏ. Mặt khác, do thiếu những tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách thống nhất nên xảy ra tình trạng địa phương nào thu được nhiều thì sẽ chi tiêu nhiều, thu được ít thì sẽ phải chi ít, do đó việc chi tiêu công chưa căn cứ vào nhu cầu chi thực tế cần thiết.
  • Bên cạnh đó còn có những hạn chế khác như hoạt động của các cơ quan khu vực công còn nhiều hạn chế, quy mô còn cồng kềnh, biên chế trong các cơ quan nhà nước rất lớn, áp lực chi tiêu công quá cao, v.vv..

PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI QUYẾT

  • Để có thể giải quyết được những tồn tại trên, thì việc sửa Luật ngân sách nhà nước không chỉ là cần thiết mà có thể nói là đặc biệt cấp bách bởi hai lý do: Thứ nhất là với việc gia nhập WTO, nền kinh tế đã chuyển sang giai đoạn mới về chất, một trình độ phát triển mới. Các thể chế kinh tế hiện hành bao gồm cả những thành tố cơ bản nhất như Luật ngân sách nhà nước không đáp ứng được yêu cầu mới. Thứ hai là thực tiễn những năm qua cho thấy có nhiều bất cập trong hoạt động chi tiêu ngân sách nhà nước nhằm mục tiêu tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế.
  • Tới đây chúng ta phải cắt giảm bội chi và đang cố gắng những năm tới sẽ đưa trở lại mức 5% (mức Quốc hội thông qua cho năm 2011 là 5,3%). Chúng ta bằng cách phải giảm lượng phát hành trái phiếu Chính phủ và các dự án đầu tư đến mức tối đa. Riêng với những dự án từ ngân sách nhà nước hoặc là của trái phiếu Chính phủ mà Quốc hội đã ban hành, sẽ chỉ tập trung vào những dự án mang lại hiệu quả sớm nhất.
  • Cần phải có một chiến lược phát triển kinh tế rõ ràng. Để đạt được tính hiệu quả, chiến lược phát triển kinh tế phải được xây dựng trên những điều kiện hiện tại và cụ thể của nền kinh tế quốc gia cũng như là nền kinh tế thế giới với những dự đoán thuyết phục. Nếu làm được như vậy, chính phủ sẽ dễ dàng hơn trong công tác hoạch định chi tiêu công và tránh những sự thay đổi không cần thiết.
  • Cần thiết chọn lựa các lĩnh vực đầu tư chi tiêu công một cách đúng đắn và hiệu quả. Các khoản chi tiêu công cần hướng đến những lĩnh vực mang tính tiên phong và có khả năng thúc đẩy các lĩnh vực khác trong nền kinh tế cùng phát triển. Cần phải có sự chuyển dịch những khoản chi tiêu công từ những lĩnh vực không hiệu qủa đến những lĩnh vực hiệu quả hoặc hiệu quả hơn để tiết kiệm chi tiêu góp phần làm giảm sức ép thâm hụt ngân sách.
  • Chính phủ phải quản lý chặt chẽ việc sử dụng ngân sách bằng việc quy định rõ ràng quyền hạn và giới hạn của địa phương trong việc quyết định các khoản chi.
  • Báo cáo về chi tiêu công phải được kiểm tra thường xuyên nhằm đảo bảo tiền đã đến được điểm chúng cần đến. Trên phương diện này, tham nhũng, cửa quyền hay chiếm dụng tài sản công sẽ được hạn chế ở mức thấp nhất.
  • Tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm giải trình tài chính.
  • Tăng cường hơn nữa việc giao quyền tự chủ cho các cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp trong quản lý chi tiêu công.
  • Thực hiện cơ chế giám sát đối với các khoản chi tiêu công.
  • Xem lại các chế độ, tiêu chuẩn, định mức phù hợp với điều kiện thực tế. Rà soát và sửa đổi những chế độ, tiêu chuẩn, định mức đã lạc hậu so với thực tiễn và bổ sung những định mức mới cho đồng bộ. Cần nâng cao tính pháp lý của hệ thống định mức không chỉ trong lập và phân bổ dự toán mà còn là yêu cầu để các đơn vị làm căn cứ trong việc thực hiện chi tiêu công. Cần nghiên cứu và xác định định mức phân bổ ngân sách một cách khoa học và phù hợp với từng lĩnh vực cụ thể. Tăng cường quyền hạn gắn với trách nhiệm cho các bộ, ngành, địa phương trong việc tự xác định định mức phân bổ ngân sách cũng như định mức chi tiêu cho cấp dưới theo định mức khung do trung ương ban hành. Mở rộng thêm quyền của chính quyền địa phương trong việc ban hành một số định mức chi tiêu có tính đặc thù theo điều kiện cụ thể của địa phương.
  • Giao cho Kho bạc nhà nước trách nhiệm là người gác cổng cuối cùng thực hiện nhiệm vụ kiểm soát chi trước khi thực hiện xuất quỹ ngân sách nhà nước để các cơ quan, đơn vị sử dụng kinh phí cho các nhiệm vụ thường xuyên và đầu tư.
  • Chuyển phương thức lập dự toán ngân sách nhà nước hàng năm sang phương thức lập dự toán ngân sách trung hạn bằng việc xây dựng khuôn khổ chi tiêu trung hạn và trên cơ sở chi tiêu trung hạn mới xây dựng và thiết lập ngân sách nhà nước hàng năm.

 

Câu 17: Các vấn đề cơ bản về phân cấp quản lý ngân sách? Ưu và nhược điểm của phân cấp quản lý ngân sách? Lộ trình phân cấp quản lý ngân sách tại Việt Nam

3.1.Khái niệm

Phân cấp quản lý ngân sách là xác định phạm vi trách nhiệm và Quyền hạn của Chính quyền Nhà nước các cấp trong việc quản lý ngân sách, nhằm tập trung đầy đủ, kịp thời, đúng chính sách các nguồn thu của Nhà nước và Phân phối, sử dụng công bằng, hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả cao, phục vụ các mục tiêu, nhiệm vụ Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

Về phân cấp quản lý ngân sách nhà nước, Luật Ngân sách Nhà nước đã xử  lý một cách căn bản quan hệ tài chính giữa các cấp chính quyền, quan hệ ngân sách giữa Trung ương và địa phương. Phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi và quan hệ giữa ngân sách các cấp thực hiện theo nguyên tắc phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể. Ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, bảo đảm các nhiệm vụ chiến lược, có quy mô toàn quốc. Còn ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu bảo đảm chủ động trong thực hiện nhiệm vụ được giao, ổn định tỷ lệ điều tiết và số cấp bổ sung từ 3 – 5 năm. Nhờ đó đã tạo thế chủ động và đảm bảo tính độc lập tương đối của ngân sách địa phương. Một mặt, mở rộng quyền tự chủ để địa phương chủ động khai thác các nguồn thu tại chỗ và chủ động bố trí chi tiêu hợp lý.

3.2.Nội dung của phân cấp quản lý NSNN. 

  • Phân cấp các vấn đề liên quan đế quản lý, điều hành NSNN từ trung ương đến địa phương trong việc ban hành, tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát về chế độ, chính sách.
  • Phân cấp về các vấn đề liên quan đến nhiệm vụ quản lý và điều hành NSNN trong việc ban hành hệ thống biểu mẫu, chứng từ về trình tự và trách nhiệm của các cấp chính quyền trong xây dựng dự toán ngân sách, quyết toán ngân sách và tổ chức thực hiện kế hoạch NSNN.

Sơ đồ:

  1. Các nguyên tắc Quản lý NSNN

Một là: phù hợp với phân cấp quản  lý kinh tế, xã hội của đất nước, được tiến hành đồng bộ với phân cấp quản lý và tổ chức bộ máy hành chính.

Hai  là: ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, tập trung các nguồn lực cơ bản để đảm bảo thực hiện các mục tiêu trọng yếu trên phạm vi cả nước. Cơ sở của nguyên tắc này xuất phát từ vị trí quan trọng của Nhà nước trung ương trong quản lý kinh tế, xã hội của cả nước mà Hiến pháp đã quy định và từ tính chất xã hội hoá của nguồn tài chính quốc gia.

Ba là: phân định rõ nhiệm vụ thu, chi giữa các cấp và ổn định tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu, số bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới được cố định từ 3 đến 5 năm. Hàng năm, chỉ xem xét điều chỉnh số bổ sung một phần khi có trượt giá và một phần theo tốc độ tăng trưởng kinh tế. Chế độ phân cấp xác định rõ khoản nào ngân sách địa phương được thu do ngân sách địa phương thu, khoản nào ngân sách địa phương phải chi do ngân sách địa phương  chi. Không để tồn tại tình trạng nhập nhằng dẫn đến tư tưởng trông chờ, ỷ lai hoặc lạm thu giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Có như vậy mới tạo điều kiện nâng cao tính chủ động cho các địa phương trong bố trí kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội.  Đồng thời là  điều kiện  để xác  định rõ trách nhiệm của  địa phương và trung ương trong quản lý NSNN, tránh co kéo trong xây dựng kế hoạch như trước đây.

Bốn là: đảm bảo công bằng trong phân cấp ngân sách. Phân cấp ngân sách phải căn cứ vào yêu cầu cân đối chung của cả nước, cố gắng hạn chế thấp nhất sự chênh lệch về văn hoá, kinh tế, xã hội giữa các vùng lãnh thổ.

Ưu và nhược điểm của phân cấp quản lí NS

Ưu:

– là 1 phương thức để tăng tính dân chủ, linh hoạt, hiệu quả và trách nhiệm của các cấp chính quyền trong việc cung cấp các hàng hóa dịch vụ công cộng bởi nếu quản lí và điều hành ngân sách chỉ tập trung vào tay chính quyền trung ương thì sẽ tạo ra tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào trung ương dẫn đến nguồn vốn XH bị sử dụng lãng phí.

– đáp ứng được nhu cầu của ng dân ở từng địa phương khác nhau vì nhà nước ko thể hiểu rõ hết và thỏa mãn tất cả những nhu cầu của nhân dân mà chỉ có những chính quyền địa phương của từng vùng mới nắm rõ nhất. Do vậy việc phân cấp sẽ đáp ứng 1 cách có hiệu quả những nhu cầu đó.

– Tạo động lực để chính quyền địa phương và ng dân phát huy tính chủ động, sáng tạo trong việc phát huy nội lực, tăng cường kiểm tra giám sát trong quản lí thu chi NS. Ng dân cũng sẵn sàng tự giác hơn trong việc chi trả các dịch vụ mà họ lựa chọn.

Nhược:

-Mất công bằng, tham nhũng, tùy tiện, không đảm bảo kỉ  luật tài khóa tổng thể hay chính sách chiến lược quốc gia cũng cần được tính đến và có giải pháp khi cần thiết.

– Nếu phân cấp ko đồng đều giữa các vùng miền, ngành nghề thì dễ phát sinh dẫn đến cục bộ địa phương.

– Nếu phân cấp quá nhiều ở các chính quyền địa phương thì khiến cho chính quyền trung ương khó khăn trong việc quản lí, các cấp khó phối hợp nhịp nhàng trong việc phân bổ NS.

Lộ trình phân cấp quản lí NSNN tại VN hiện nay:

Tại Việt nam, kể từ sau khi có luật NSNN, cơ chế phân cấp đã có sự thay đổi một cách căn bản, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho chính quyền địa phương trong việc chủ động khai thác nguồn thu và bố trí chi tiêu.

– Trước đây, khi chưa có luật NSNN, về thu, hầu như năm nào chính phủ cũng điều chỉnh nguồn thu, tỷ lệ điều tiết một số khoản thu giữa trung ương và địa phương. Việc điều chỉnh này chủ yếu bằng quyết định, chỉ thị (các văn bản dưới luật) của thủ tướng chính phủ nên hiệu lực pháp lý không cao. Có những nguồn thu, năm thì để lại cho địa phương, năm thì thu về trung ương (thuế xuất, nhập khẩu tiểu ngạch, thu cấp quyền sử dụng đất…). Về chi, cũng thường xuyên sửa đổi các nhiệm vụ chi (như chi trợ cấp khó khăn thường xuyên và đột xuất cho cán bộ trung ương; chi cho bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân; quản lý công tác định canh, định cư và xây dựng vùng kinh tế mới, đo đạc và quản lý ruộng đất…có năm được xác định là nhiệm vụ của trung ương, có năm lại là của địa phương).

– Luật đã khẳng định nguyên tắc: ngân sách cấp trên nắm giữ các nguồn thu chủ yếu và đảm nhận các nhiệm vụ chi quan trọng hơn cấp dưới, các nguồn thu của ngân sách cấp dưới không đủ đáp ứng nhu cầu chi thì được cấp bổ sung và không được sử dụng ngân sách cấp này để chi cho nhiệm vụ của ngân sách cấp khác. Do đó, xét về định tính, tuy cả NSTƯ và NSĐP (tỉnh) đều có mười khoản thu 100% nhưng NSTƯ nắm giữ các nguồn thu quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu thu của cả nước. Thực tiễn trong mấy năm gần đây, tỷ trọng của NSTƯ chiếm khoảng 70% tỷ trọng chung của NSNN (năm 1999, quyết toán thu NSTƯ là 58918 tỷ đồng và NSĐP thu là 19571 tỷ), chủ yếu là thu từ các xí nghiệp quốc doanh, các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (đặc biệt là lĩnh vực dầu khí) từ thuế xuất, nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt hàng nhập khẩu, thuế GTGT hàng nhập khẩu và thu từ viện trợ không hoàn lại. Từ chỗ tập trung các nguồn thu chủ yếu vào NSTƯ nên các nhiệm vụ chi của nó cũng khá nặng nề (năm 1999, tổng chi NSTƯ quyết toán là 52206 tỷ đồng và NSĐP là 38766 tỷ đồng) chủ yếu là chi đầu tư phát triển (xây dựng cơ bản, hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp nhà nước, các chương trình quốc gia), chi trả nợ, viện trợ, chi thường xuyên (quốc phòng, an ninh, lương hưu, bảo đảm xã hội…).
– Từ khi đưa luật NSNN vào thực tiễn, nhiều địa phương đã ý thức được trách nhiệm phải đảm bảo nguồn thu gắn với tăng trưởng và phát triển kinh tế ở địa phương thì mới có thể đảm nhận tốt nhiều nhiệm vị chi. Đồng thời, nhận thức được, khi đời sống của đại đa số nhân dân ở địa phương khá lên thì NSĐP mới đảm bảo được hầu hết các nhiệm vụ chi về giáo dục, y tế, văn hoá, xã hội…Do đó, các khoản thu của NSĐP nhìn chung được tập trung thu đúng, thu đủ, kịp thời, giảm bớt sự phân tán nguồn thu nên số thu ngày càng ổn định và nguồn thu ngày càng được mở rộng.

– Luật NSNN một mặt đề cao vai trò của NSTƯ, mặt khác để đảm bảo khả năng cân đối của ngân sách các cấp địa phương, luật đã thu hẹp dần các khoản thu của NSTƯ được hưởng 100%. Quá trình thu hẹp này còn diễn ra khi quốc hội sửa đổi luật ngân sách(20/5/1998), một mặt thay đổi thuế doanh thu bằng thuế GTGT, thuế lợi tức bằng thuế thu nhập doanh nghiệp; mặt khác điều chỉnh nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách, trong đó hai khoản thu từ thuế sử dụng đất nông nghiệp và thuế tài nguyên (trừ dầu khí) được để lại 100% cho NSĐP (theo luật cũ là phân chia giữa NSTƯ và NSĐP). Đồng thời, tăng thêm các khoản thu cho NSĐP, đặc biệt là cấp huyện và đô thị về thuế tiêu thụ đặc biệt (trước đây trung ương thu 100%), thu đối với hàng sản xuất trong nước thu vào các mặt hàng bài lá, vàng mã, kinh doanh vũ trường…đã tạo điều kiện làm phong phú nguồn thu của NSĐP.

Câu 18.1:      Cân đối ngân sách nhà nước. Thực trạng trong cân đối ngân sách nhà nước tại Việt Nam hiện nay. Giải pháp hoàn thiện.

 

Thực trạng trong cân đối ngân sách Nhà nước của Việt Nam

– Thực tế, hầu như năm nào VN cũng bội chi, trước năm 2008 bội chi được duy trì ở mức 5%. Đến 2009, 2010 tỷ lệ bội chi 6,9% và 6,2%. Theo cách tính bội chi NSNN của Việt Nam có những khoản chi như: chi cho công trình giao thông, thủy lợi và kiên cố hóa trường học thông qua trái phiếu chính phủ, công trái giáo dục lại để ngoài cân đối NSNN, vì vậy thực tế con số bội chi NSNN này lớn hơn những con số đã được công bố. năm 2009,2010 tỷ lệ bội chi đã vượt quá mức an toàn

(5%). Đến năm 2011, nhà nước đặt ra tiêu chuẩn kiềm chế mức bội chi không vượt quá ngưỡng 5 % theo Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 24/2/2011.

– Số tiền vay nhằm bù đắp thâm hụt, đặc biệt của nước ngoài, chưa được quản lý chặt chẽ. Tình trạng đầu tư dàn trải ở các địa phương vẫn chưa được khắc phục triệt để, tiến độ thi công những dự án trọng điểm quốc gia còn chậm và thiếu hiệu quả

– Chưa chú trọng mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên. Đây là một trong những nguyên nhân gây căng thẳng về ngân sách áp lực bội chi ngân sách (nhất là ngân sách các địa phương). Chúng ta có thể thấy, thông qua cơ chế phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách và cơ chế bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới.

– Thực chất các khoản vay của ngân sách địa phương chính là bội chi NSNN. Một trong những nguyên tắc quản lý NSNN ở Việt Nam là tuân theo theo nguyên tắc thống nhất, tổng thể NSNN bao gồm ngân sách các cấp, điều đó đòi hỏi các khoản bội chi của ngân sách địa phương phải được tổng hợp để tính bội chi NSNN. Tuy nhiên khi vay, các địa phương phải cân đối ngân sách nên không thể hiện đầy đủ bội chi khi quyết toán NSNN. Mức bội chi NSNN hằng năm trình Quốc hội mới chỉ phản ánh được mức bội chi của ngân sách trung ương. Đây là một trong những mắt xích cần phải được giải quyết trong việc xử lý bội chi ngân sách Nhà nước.

CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

  1. Khái niệm cân đối ngân sách nhà nước
  • Xét về bản chất, cân đối ngân sách nhà nước là cân đối giữa các nguồn thu mà Nhà nước huy động được tập trung vào ngân sách nhà nước trong một năm và sự phân phối, sử dụng nguồn thu đó thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước trong năm đó
  • Xét về góc độ tổng thể, cân đối ngân sách nhà nước phản ánh mối tương quan giữa thu và chi trong một tài khóa. Nó không chỉ là sự tương quan giữa tổng thu và tổng chi mà còn thể hiện sự phân bổ hợp lý giữa cơ cấu các khoản thu và cơ cấu các khoản chi của ngân sách nhà nước
  • Xét trên phương diện phân cấp quản lý nhà nước, cân đối ngân sách nhà nước là cân đối về phân bổ và chuyển giao nguồn thu giữa các cấp ngân sách, giữa trung ương và địa phương và giữa các địa phương với nhau để thực hiện chức năng và nhiệm vụ được giao.

Cân đối ngân sách nhà nước nhằm mục đích đảm bảo tài chính cho Nhà nước thực hiện được tốt nhất chức năng, nhiệm vụ của mình, chứ không phải đơn giản chỉ để tổng thu và tổng  chi bằng nhau. Cân đối ngân sách nhà nước ngoài sự cân bằng về thu, chi còn là sự hài hoà, hợp lý trong cơ cấu thu, chi; mối quan hệ về lượng giữa thu chi NSNN và thực trạng nền kinh tế, mối quan hệ hợp lý giữa NSTW và NSĐP…

Trong thực tiễn, với ảnh hưởng của sự vận động của nền kinh tế quốc gia, cân đối NSNN luôn trong trạng thái vận động không ngừng, luôn phát sinh mâu thuẫn giữa thu và chi, cũng như giữa các bộ phận cấu thành NSNN …

Đảm bảo cân đối ngân sách là một đòi hỏi có tính chất khách quan xuất phát từ vai trò nhà nước trong can thiệp vào nền kinh tế thị trường với mục tiêu ổn định, hiệu quả và công bằng. Tính toán nhu cầu chi sát với khả năng thu trong khi lập ngân sách là rất quan trọng. Các khoản chi chỉ được phép thực hiện khi đã có đủ các nguồn thu bù đắp.

Ở nước ta, nguyên tắc này đã được quán triệt chặt chẽ trong quá trình quản lý ngân sách trên cả ba khâu: lập dự toán, tổ chức chấp hành dự toán và quyết toán ngân sách cũng như quá trình phân cấp ngân sách cho các địa phương.

Theo luật Ngân sách Việt Nam, Cân đối ngân sách được thực hiện theo nguyên tắc:

  • Tổng thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng chi thường xuyên và góp phần tích luỹ ngày càng cao vào đầu tư phát triển. Trường hợp NSNN bội chi thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu chi ngân sách.
  • Vay để bù đắp bội chi NS phải đảm bảo nguyên tắc: không sử dụng cho tiêu dùng, chỉ sử dụng cho mục đích đầu tư phát triển và phải có kế hoạch thu hồi vốn vay đảm bảo cân đối NS để chủ động trả hết nợ khi đến hạn.
  • Ngân sách địa phương được cân đối theo nguyên tắc: tổng số chi không vượt quá số thu, trường hợp tỉnh, thành phố trực thuộc TW (cấp tỉnh) có nhu cầu đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh mà vượt quá khả năng cân đối thì được phép huy động vốn đầu tư trong nước theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ và phải cân đối ngân sách cấp tỉnh để chủ động trả nợ khi đến hạn.
  • Vay trong nước được thực hiện dưới hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ (đối với Ngân sách TƯ) hoặc trái phiếu công trình (đối với ngân sách địa phương), mức và thời điểm phát hành trái phiếu do Bộ Tài Chính quyết định. Các khoản vay nợ để xử lí bội chi được đưa vào cân đối ngân sách, là khoản thu của ngân sách các cấp.
  1. Vai trò của cân đối ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường

Cân đối ngân sách nhà nước là một công cụ quan trọng để Nhà nước can thiệp vào hoạt động kinh tế- xã hội của đất nước, với vai trò quyết định đó thì cân đối ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường có các vai trò sau:

Cân đối ngân sách nhà nước góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Nhà nước thực hiện cân đối ngân sách nhà nước thông qua chính sách thuế, chính sách chi tiêu hàng năm và quyết định mức bội chi cụ thể nên có nhiều tác động đến hoạt động kinh tế cũng như cán cân thương mại quốc tế. Từ đó góp phần ổn định việc thực các mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô như: Tăng trưởng mức thu nhập bình quân trong nền kinh tế, giảm tỷ lệ thất nghiệp, lạm phát được duy trì ở mức ổn định và có thể dự toán được,…

Cân đối ngân sách nhà nước góp phần phân bổ, sử dụng nguồn lực tài chính có hiệu quả, để đảm bảo được vai trò này ngay từ khi lập dự toán Nhà nước đã lựa chọn trình tự ưu tiên hợp lý trong phân bổ ngân sách nhà nước và sự gắn kết chặt chẽ giữa chiến lược phát triển kinh tế- xã hội với công tác lập kế hoạch ngân sách. Trong phân cấp quản lý ngân sách, nếu cân đối ngân sách nhà nước phân định nguồn thu một cách hợp lý giữa trung ương với địa phương và giữa các địa phương với nhau thì sẽ đảm bảo thực hiện được các mục tiêu kinh tế- xã hội đã đề ra.

Cân đối ngân sách nhà nước góp phần đảm bảo công bằng xã hội, giảm thiểu sự bất bình đẳng giữa các địa phương. Nước ta với mỗi một vùng lại có một điều kiện kinh tế- xã hội khác nhau, có những vùng điều kiện kinh tế- xã hội rất khó khăn làm ảnh hưởng đến thu nhập và chất lượng cuộc sống của người dân, có những vùng điều kiện kinh tế- xã hội thuận lợi, phát triển làm cho thu nhập và cuộc sống của người dân được nâng lên. Vì vậy cân đối ngân sách nhà nước sẽ đảm được sự công bằng, giảm thiểu sự bất bình đẳng giữa người dân và các vùng miền. Nhà nước có thể huy động nguồn lực từ những người có thu nhập cao, những vùng có kinh tế phát triển để hổ trợ, giúp đỡ những người nghèo có thu nhập thấp và những vùng kinh tế kém phát triển. Bên cạnh đó, cân đối ngân sách nhà nước góp phần phát huy lợi thế của từng địa phương, tạo nên thế mạnh kinh tế cho địa phương đó dựa trên tiềm năng có sẳn của địa phương.

  1. Thực trạng cân đối ngân sách nhà nước Việt Nam hiện nay

3.1 Lập dự toán NSNN :

Lập dự toán không sát thực tế, còn mang tính chủ quan, không phản ánh được mục tiêu phát triển kinh tế ảnh hưởng không nhỏ đến sự chủ động trong bố trí kế hoạch thu-chi và cân đối ngân sách. Thu ngân sách của các ngành, địa phương trong các năm đều đạt và vượt rất cao. Quyết toán ngân sách nhà nước năm 2008 vượt dự toán tới 33,3%; Tổng thu ngân sách nhà nước vẫn vượt dự toán gần 20%. Điều này bộc lộ hạn chế về khả năng dự báo nguồn thu của các cơ quan lập dự toán ngân sách.

Việc lập dự toán chỉ trong ngắn hạn 1 năm, lập dựa theo kết quả năm trước, chưa có kế hoạch lập NSNN cho phát triển kinh tế – xã hội theo trung hạn, chưa có tầm nhìn.

Công tác lập dự toán còn nhiều khúc mắc, việc lập dự toán theo kết quả đầu vào vẫn còn tồn tại, chưa phát huy được tính hiệu quả của lập dự toán theo đầu ra, dẫn đến lãng phí và tham nhũng cao.

Nhiều địa phương lập dự toán thu thấp hướng tới thu cao, để được thưởng vượt thu từ NSNN.

  • Tổ chức chấp hành dự toán :

Việc thu, chi ngân sách Nhà nước hiện nay vẫn còn nhiều bất cập. Trong khi thu chưa vững chắc thì chi lại giàn trải, chi không hiệu quả và có thêm một kiểu chi mới là chi hoành tráng lại rất nhiều.

  • Thu NSNN :

Cơ cấu thu ngân sách không ổn định, quá lệ thuộc vào các nguồn thu chịu ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài như thu từ dầu thô, từ thuế xuất nhập khẩu.

Quản lý thu NS còn nhiều bất cập, thất thu và trốn thuế còn tràn lan. Luật thuế và chính sách thuế chưa quy định rõ ràng, lồng ghép việc thu và cả mục tiêu xã hội khiến việc triển khai thu gặp nhiều khó khăn và phức tạp, lại không có hiệu quả cao.

  • Chi NSNN:

– Việc quản lý chi ngân sách chưa thực sự triệt để tiết kiệm, hiệu quả. Ví dụ: Thực hiện kiềm chế lạm phát, các cơ quan phải tiết kiệm tối thiểu 10% chi thường xuyên, nhưng kết quả là chi thường xuyên năm 2008 vẫn tăng 13% so với dự toán.

– Bộ máy hành chính sự nghiệp kém hiệu quả là một gánh nặng cho NSNN. Với số lượng cán bộ công chức không nhỏ (1.850 ngàn người), bộ máy này đang vận hành khá trì trệ, giữa kết quả làm ra với chi phí đầu vào không tương xứng, nhiều khoản chi tiêu lãng phí, việc sử dụng NSNN sai mục đích, chi sai chế độ, chi vượt dự toán diễn ra phổ biến …

– Lãng phí, thất thoát nghiêm trọng nhất hiên nay là trong đầu tư xây dựng cơ bản. Tỷ lệ thất thoát, lãng phí dao động từ 10-30% tổng số vốn đầu tư. Hiệu quả đầu tư thấp, chỉ số ICOR ở mức khá cao, trên 8, điều đó có nghĩa là phải đầu tư 8 lần mới có một mức tăng trưởng của GDP là 1 đồng. Trong khi đó ICOR ở các nước phát triển là khoảng 3,5-4%.

– Xảy ra tình trạng đầu tư thông qua các doanh nghiệp Nhà nước và các dự án công không giải ngân nổi, phải trả lại NSNN hoặc ép giải ngân gây lãng phí. Tình trạng phân bổ vốn phân tán, dàn trải trong bối cảnh kinh tế vĩ mô chưa ổn định làm gia tăng lạm phát. Việc kéo dài thời gian thực hiện các dự án làm cho chi phí đầu tư tăng do giá cả vật tư, nguyên liệu trên thị trường biến động.

– Kết quả triển khai chi cho các chương trình phát triển còn chậm, phải chuyển nguồn sang năm sau: có nhiều khoản chi lại không đạt như năm 2008, các khoản chi về sự nghiệp giáo dục-đào tạo và dạy nghề đạt 93% dự toán, chi sự nghiệp khoa học-công nghệ 81,9%, chi chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng đạt trên 80%…

– Vấn đề đầu tư cho công nghệ chưa đúng mức : Các khoản góp vốn cho các doanh nghiệp nhà nước, bù lỗ cho các doanh nghiệp xăng dầu, cho các doanh nghiệp nhà nước vay lại là rất lớn (lên đến 35 ngàn 408 tỉ đồng), khi so với tổng chi cho khoa học công nghệ chỉ là 3.191 tỉ đồng, chưa bằng 10% khoản chi đó (theo quyết toán NSNN 2008)

  • Bội chi NSNN

Cách xác định bội chi NSNN chưa hợp lý: Có sự trùng lặp khi bố trí chi ngân sách 2 lần đối với các khoản vay bù đắp bội chi: Lần thứ nhất sử dụng nguồn vay cho các mục tiêu, nhiệm vụ của NSNN; lần thứ 2 bố trí chi ngân sách để trả nợ (gốc và lãi) khi các khoản vay đến hạn trả. Các khoản vay về để cho vay, khoản viện trợ chính thức ODA thì lại không được phản ánh vào cân đối NSNN, các khoản huy động vốn hay bội chi của chính quyền địa phương chưa được tổng hợp vào bội chi NSNN… Theo thông lệ quốc tế, việc xác định bội chi chỉ bao gồm trả nợ lãi trong và ngoài nước, không bao gồm trả nợ gốc, nhưng bao gồm cả các khoản vay về cho vay lại.

– Hàng năm mức bội chi ngân sách được công bố không vượt quá 5% GDP. Nhưng có những khoản chi như: chi cho công trình giao thông, thủy lợi và kiên cố hóa trường học thông qua trái phiếu chính phủ, công trái giáo dục lại để ngoài cân đối NSNN.vì vậy thực tế con số bội chi NSNN này lớn hơn 5%. Qua đó, tính minh bạch trong cân đối NSNN chưa vân dụng triệt để khi xác định tỷ lệ bội chi NSNN.

– Còn tồn đọng một số vấn đề: vay nước ngoài cho đầu tư phát triển chưa được quản lý chặt chẽ, chưa chú trọng đến mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên tạo áp lực bội chi ngân sách nhà nước (nhất là ngân sách địa phương),…

– Bội chi có thể được sử dụng trong chính sách tài khóa để kích thích sự tăng trưởng kinh tế. Khi cân đối NSNN, thường xác định số bội chi trước và nguồn còn lại được Quốc hội cho phép chuyển nguồn sang năm sau. Đây là chính sách ngân sách thận trọng khi áp dụng lý thuyết bội chi một cách chủ động để chi đầu tư phát triển cho các dự án trọng điểm và hiệu quả qua đó tạo thêm công ăn việc làm, tạo đà cho nền kinh tế phát triển, tăng khả năng thu NSNN trong tương lai. Nhưng toàn bộ số bội chi có được sử dụng hay không thì vẫn chưa biết được.

– Bội chi cao qua các năm : Bội chi là điều không thể tránh khỏi ở mỗi nước. Nhưng 4.58% bội chi năm 2008, 5,64% GDP năm 2007, 5% năm 2006 đã trở thành những con số quá cao trong nhiều năm trở lại đây. Tỷ lệ chi ngân sách trên tổng thu nhập quốc nội (GDP) của Việt Nam vào loại cao nhất khu vực: 31,3%; 31,6%; 34,9% và 33,3% trong các năm 2005-2008.

  • Quyết toán ngân sách :

– Vai trò của Kiểm toán NN chưa được đánh giá cao. Việc thực hiện các kết quả của kiểm toán chưa nghiêm. Biểu hiện là một số sai phạm vẫn có xu hướng tăng (đó là những khoản phát hiện kiến nghị phải tăng thu trong năm 2006 là 1.330,5 tỷ, sang năm 2007 thì khoản này là 2.760 tỷ, hoặc những khoản phải thu hồi do chi sai của nợ 2006 là 129,7 tỷ đồng, sang 2007 là 218 tỷ). Tỷ lệ thực hiện các kết luận và kiến nghị của kiểm toán chưa cao. Tỷ lệ chung của 2007 chỉ đạt 67,3% và trong đó khối địa phương thực hiện nghiêm túc hơn các kết luận, kiến nghị của kiểm toán (gần 70%), trong khi đó khối trung ương chỉ đạt 52,9%.

– Số thu về phí, lệ phí hiện nay chưa được quy định rõ ràng, khoản nào trong cân đối, khoản nào ngoài cân đối NSNN, khoản nào hạch toán trong NSNN. Nhiều khoản vẫn chưa được hạch toán đầy đủ vào cân đối NSNN.

– Một số khoản thu phí, lệ phí, học phí, viện phí…không được tính toán cân đối NSNN mà để lại đơn vị chi tiêu; khi quyết toán sẽ thực hiện ghi thu, ghi chi vào NSNN. Kết quả kiểm toán cho thấy khoản phí, lệ phí là con số không nhỏ (ước tính hàng ngàn tỷ đồng) và đây là nguồn thu ngân sách nhà nước cần phải được đưa vào cân đối, bố trí trong dự toán hàng năm.

Lượng tiền chuyển nguồn lớn: có khoảng 88.821 tỷ đồng chi chuyển nguồn từ năm 2007 sang năm 2008. Điều này tạo ra con số ảo trong thu – chi của năm trước và năm sau. Nghịch lý là trong khi phải chuyển nguồn thì bội chi ngân sách lại được xử lý bằng vay trong nước và ngoài nước. “Tiền đi vay thì sử dụng không hết trong khi lại phải vay khoản khác để bù bội chi”. Tất cả các địa phương nhận NSNN đều còn kết dư trong khi NSTW phải đi vay để bù đắp bội chi ngân sách. Tuy nhiên, nếu không cho chi chuyển nguồn thì xảy ra tình trạng một số địa phương, bộ, ngành “chạy chi” để làm sao chi hết tiền. Điều này đã gây tình trạng lãng phí, vi phạm. Như vậy có thể thấy vẫn còn nhiều yếu kém trong cơ chế quản lý NSNN.

  • Hạn chế trong phân cấp ngân sách cho các địa phương.

NSĐP đã có quyền chủ động hơn theo Luật NSNN sửa đổi năm 2002: Vay vốn đầu tư thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm do hội đồng nhân dân tỉnh quyết định (không phải theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ như trước đây). Như vậy, về nguyên tắc là không có việc bội chi NSĐP nhưng thực tế lại vẫn cho phép địa phương vay để đầu tư. Vấn đề là ở chỗ, hiện nay, các địa phương vay vốn để đầu tư tương đối lớn và chưa được quản lý một cách chặt chẽ. Điều đáng lưu ý là trong khi nguồn vốn ngân sách hiện có chưa tận dụng hết, các địa phương vẫn tiến hành vay vốn; tỷ lệ vốn vay chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng chi đầu tư phát triển. Trong khi phải đi vay thì ngân sách địa phương lại để kết dư lớn, có tỉnh cuối năm kết dư bằng 78,5% số bổ sung từ NSTW và bằng 24,9 % so với tổng chi NSĐP. Ngay như Hà Nội, năm 2008 dự tính kết dư khoảng 2.000 tỷ đồng phải gửi tại Kho bạc Nhà nước, trong khi ngân sách vẫn phải huy động vốn để đầu tư phát triển là hết sức vô lý.

  1. Các giải pháp hoàn thiện cân đối NSNN :

4.1 Tăng cường công tác kiểm soát bội chi NSNN

Chính phủ cần nâng cao vai trò, trách nhiệm của mình hơn nữa trong việc kiểm soát bội chi NSNN. Năng lực và trình độ quản lý của bộ máy nhà nước còn yếu kém, không phát hiện và xử lý kịp thời những trường hợp vi phạm nguyên tắc và dự toán NSNN đã đề ra, nguồn vốn vay bù đắp bội chi chưa sử dụng hiệu quả.

Cần tăng cường rà soát, cắt giảm những khoản chi tiêu NSNN chưa thật cần thiết và kém hiệu quả, không lãng phí nguồn thu NSNN và chống tham nhũng.

Kiểm soát chặt chẽ ngay từ khâu vay vốn để bù đắp bội chi và sử dụng cho đầu tư phát triển, duy trì mức bội chi cho phép hàng năm do Quốc hội quyết định.

Cần tạo điều kiện cho người dân tham gia giám sát, theo dõi quá trình thực hiện nhiệm vụ ngân sách của các cấp, các ngành bằng cách cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ và kịp thời qua các phương tiện truyền thanh, báo chí. Điều này sẽ góp phần thúc đẩy tính minh bạch và trách nhiệm của người sử dụng và quản lý NSNN.

Vấn đề vay nợ ở địa phương cũng phải được kiểm soát và quản lý hiệu quả hơn, không để tình trạng địa phương còn kết dư ngân sách mà vẫn tiếp tục đi vay nợ.

Để thực hiện tốt chức năng kiểm soát NSNN, Quốc hội cần phải chú trọng ngay từ khâu lập dự toán, cụ thể hóa từng khoản chi và phân chia nguồn thu hợp lý và trong khâu chấp hành và quyết toán NSNN cần có sự đồng tâm nhất trí cao của các Bộ, ngành và địa phương giám sát thực hiện dự toán đó. Bên cạnh đó cần thực hiện triệt để chính sách có thu mới có chi, không để bội chi NSNN tăng quá cao, nếu cần thiết nên giảm tỷ lệ bội chi NSNN so với GDP dưới mức 5%, ở khoảng 3-4%, đây sẽ là mức bội chi NSNN tích cực thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, phát triển.

4.2 Hoàn thiện biện pháp bù đắp bội chi NSNN đảm bảo cân đối NSNN

Theo Luật NSNN năm 2002, biện pháp bù đắp bội chi NSNN là vay nợ trong và ngoài nước

  • Về hoạt động vay nợ trong nước: Để phù hợp với cơ chế chỉ bội chi cho đầu tư phát triển, cần phát hành trái phiếu chính phủ 5 -10- 20 năm thay cho kỳ hạn 1 – 2 năm. Nâng cao tính thanh khoản của thị trường, mở cửa thị trường trái phiếu thu hút nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư cũng như hoàn thiện hệ thống thuế đánh vào thu nhập từ trái phiếu. Nhờ đó, Chính phủ sẽ linh hoạt hơn trong việc cân đối nhu cầu vay nợ để bù đắp bội chi.
  • Về hoạt động vay nợ nước ngoài: Để tăng tính chủ động trong cân đối NSNN, Chính phủ cần làm hài hòa các thủ tục tiếp nhận các nguồn vốn ODA và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các chương trình, dự án ODA giữa Việt Nam và các nhà tài trợ.

Vì có vay là có trả nợ nên nếu về lâu dài không kiểm soát tốt được bội chi NSNN sẽ tăng gánh nặng về nợ cho chính phủ. Do đó, cần hoàn thiện các biện pháp vay nợ để thuận lợi hơn khi chính phủ thực hiện vay nợ bù đắp bội chi, chứ không khuyến khích tăng bội chi và tăng nhu cầu vay nợ lên. Nhà nước cần đảm bảo mức vay nợ trong nước chiếm tỷ trọng lớn để giảm sự lệ thuộc vào nước ngoài, khai thác được nội lực. Trong thời gian sắp tới, cần phải xác định mối tương quan giữa vay nợ trong nước và vay nợ nước ngoài để đảm bảo bù đắp bội chi NSNN đạt hiệu quả nhất.

Bên cạnh đó, cần phải nghiên cứu và tìm hiểu nguyên dẫn đến bội chi NSNN để từ đó lựa chọn những giải pháp cho phù hợp. Chính phủ có thể linh hoạt xử lý bội chi NSNN bằng cách cắt giảm những khoản chi tiêu bất hợp lý, không hiệu quả và phát triển nguồn thu để giảm bớt thâm hụt NSNN. Tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm trong cách quản lý và sử dụng NSNN, tránh lãng phí và tham nhũng góp làm giảm bội chi NSNN đạt mục tiêu trong năm ngân sách. Chính phủ cần nghiên cứu thay đổi phương pháp xác định bội chi NSNN đầy đủ và toàn diện phù hợp với thông lệ quốc tế phản ánh đúng thực chất của bội chi NSNN.

4.3 Hoàn thiện phân cấp quản lý NSNN để đảm bảo cân đối trong hệ thống NSNN

Vấn đề bất cập ảnh hưởng đến sự cân đối tổng thể trong NSNN đó là: NSTW thực hiện cân đối thay cho NSĐP khi có thiếu hụt xảy ra ở địa phương. Cơ chế này đã tạo tính bị động cho địa phương và không đảm bảo tính trách nhiệm cũng như minh bạch trong quá trình sử dụng và quản lý nguồn lực tài chính ở địa phương. Vì vậy trong thời gian tới cần khắc phục tình trạng NSTW cân đối thay cho NSĐP trên cơ sở tăng tính chủ động và trách nhiệm của địa phương.

+ Mở rộng phân định nguồn thu và xác định rõ ràng nhiệm vụ chi của từng cấp chính quyền phù hợp với chức năng và năng lực của từng cấp chính quyền địa phương

Chính phủ cần mở rộng cho địa phương một số nguồn thu gắn liền với kết quả tăng trưởng kinh tế trên địa bàn đó, theo hướng chuyển dần một số khoản thu điều tiết giữa trung ương và địa phương sang khoản thu địa phương được hưởng 100%, để kích thích địa phương nuôi dưỡng và khai thác tốt nguồn thu ở địa phương mình. Ví dụ như Thuế thu nhập cá nhân

Cho phép địa phương quyết định thuế suất của một số sắc thuế hoặc tự đặt ra sắc thuế riêng cho mình gắn với điều kiện kinh tế- xã hội khác nhau ở mỗi vùng. Tuy nhiên, biện pháp này chỉ khả thi khi năng lực và trình độ quản lý của chính quyền địa phương là tốt.

+  Hoàn thiện cơ chế bổ sung cân đối NSNN nhằm khắc phục vấn đề NSĐP còn quá lệ thuộc vào sự hỗ trợ của NSTW, mà không linh động tận dụng khả năng vốn có của địa phương

Nhà nước chỉ nên xem bổ sung cân đối NSNN là giải pháp cuối cùng khi địa phương đã nỗ lực hết mình trong khai thác nguồn thu, nhiệm vụ chi và nhu cầu chi là cần thiết không thể cắt giảm và tiết kiệm hơn nữa, mà địa phương không thể tự cân đối được. Có như vậy, Chính quyền địa phương sẽ không còn ỷ lại vào sự hỗ trợ của ngân sách cấp trên nữa, thay vào đó sẽ tích cực hơn trong công tác giải quyết thiếu hụt NSĐP, giảm bớt gánh nặng cho NSNN.

Bên cạnh đó, cần nâng cao trách nhiệm và tính minh bạch của mỗi địa phương trong việc kê khai và dự toán khả năng thu chi của địa phương một cách chính xác, để chính phủ có những giải pháp hợp lý bổ sung cân đối ngân sách cho mỗi địa phương.

Cần quán triệt theo tinh thần không bổ sung cân đối toàn bộ những thiếu hụt của NSĐP, mà để lại một phần (10-20%) cho địa phương tự bù đắp để tăng cường tính trách nhiệm và khả năng chủ động cho địa phương. Trong cơ chế bổ sung này, cần ưu tiên cho những địa phương có điều kiện kinh tế- xã hội khó khăn, yếu kém và thực hiện bổ sung có mục tiêu nhằm hỗ trợ địa phương phát huy được các thế mạnh và khắc phục được những yếu kém.


Tải xuống tài liệu học tập PDF miễn phí

Tải Xuống Tại Đây  


LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here