Các biện pháp điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế Việt Nam

0
10100
Các biện pháp điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế Việt Nam
QUẢNG CÁO
Vài Phút Quảng Cáo Sản Phẩm


Các biện pháp điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế Việt Nam

Mọi ý kiến đóng góp xin gửi vào hòm thư: [email protected]

Kéo xuống để Tải ngay bản PDF đầy đủ: Sau “mục lục” và “bản xem trước”

(Nếu là bài nhiều công thức nên mọi người nên tải về để xem tránh mất công thức)

Bài liên quan: Đồ án Hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ


Tải ngay bản PDF tại đây: Các biện pháp điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế Việt Nam

Quảng Cáo

+

Chương 3: Các biện pháp điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế Việt Nam.

3.1 Phương hướng điều chỉnh cán cân thanh toán

Các chuyên gia kinh tế cho rằng thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam chưa tới mức nghiêm trọng mà vẫn có thể kiểm soát được. Vì các lý do khác nhau mà cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam vẫn chưa bị coi là tình trạng báo động. Lý do thứ nhất, là do các món nợ ngắn hạn của Việt Nam vẫn có thể được trả đúng hạn. Mức độ dự trữ hiện nay là cao hơn so với các năm trước và vì có ít yêu cầu trả các khoản nợ nhỏ ngắn hạn, nên không có thúc bách lớn cần phải dự trữ quốc tế trong ngắn hạn và trung hạn. Các dự trữ đủ lớn với kim ngạch nhập khẩu và sự mất cân đối thương mại của Việt Nam đã có dấu hiệu chứng tỏ được phục hồi. Hơn nữa, các dòng vốn quốc tế được dự báo sẽ trở lại xu thế như trước đây, khi nền kinh tế thế giới khởi sắc trở lại vào năm 2010. Điều quan trọng là Việt Nam vẫn giữ được niềm tin đối với nền kinh tế, đảm bảo làm giảm thiểu sự di chuyển vốn.

Thứ nhất, Việt Nam có thể xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu cao về nhập khẩu của một số nước, việc áp các biện pháp hạn chế nhập khẩu sẽ làm mất tính cạnh tranh trong xuất khẩu của Việt Nam. Thứ hai, việc áp dụng chính sách thương mại thay đổi như vậy có thể dẫn đến tình trạng một số dự án đầu tư có vốn trực tiếp nước ngoài sẽ rút về hoặc đóng băng, vì những dự án này cần nhập khẩu cho đầu vào hoặc công nghệ của họ. Thứ ba, những biện pháp như vậy có thể gây mất lòng tin của nhà đầu tư đối với viễn cảnh kinh tế của Việt Nam. Điều này có thể sẽ dẫn đến tình trạng di chuyển vốn và tạo ra áp lực làm mất giá đồng tiền Việt Nam.

Tiến sĩ Võ Trí Thành – chuyên gia kinh tế khi nhìn nhận về viễn cảnh kinh tế và tầm nhìn chính sách Việt Nam 2010 cho rằng: Cần phải tính đến việc can thiệp của chính sách vĩ mô trong giai đoạn của khủng hoảng và rút lui ra khỏi khủng hoảng như thế nào ? Vấn đề mất cân đối có mang tính chất bền vững không ? Không có nền kinh tế nào có thể cân đối cả bên trong và bên ngoài, trong nền kinh tế có mức độ đôla hóa như của Việt Nam các chính sách tài khóa và tiền tệ rất khó thống nhất điều này tạo điều kiện cho các nhà đầu cơ tài chính. Cơ cấu xuất nhập khẩu của Việt Nam có vấn đề, nợ nước ngoài tăng nhanh… trong 2 năm qua Việt Nam đã sử dụng quá nhiều biện pháp hành chính nên đặt nền kinh tế hiện tại trong một trạng thái rất khó. Ví dụ: trần lãi suất, trần về thâm hụt ngân sách… các mất cân đối đang diễn ra nghiêm trọng và có xu hướng tăng. Các giải pháp: thắt chặt chính sách tiền tệ, đồng Việt Nam phải được bảo vệ bằng cách tăng lãi suất, nhưng vấn đề đặt ra là tiến độ chính sách là ngay lập tức hay từ từ ?

Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay, mặc dù có nhiều chuyển biến tích cực song vẫn còn nhiều mặt hạn chế như áp lực lạm phát tăng cao, sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam về hàng hóa xuất khẩu còn kém, mức tiết kiệm trong nước còn rất thấp, thiếu vốn đầu tư, tỷ lệ thất nghiệp vẫn còn cao, nhập siêu vẫn kéo dài… Tuy cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam đã thặng dư và sẽ tiếp tục thặng dư song cán cân thương mại ngày càng thâm hụt do nhập siêu. Sự thặng dư ở đây là do nguồn đầu tư vào trong nước ngày càng tăng và lượng kiều hối chuyển về nước cũng tăng mạnh. Mà đối với một nước luôn nhập siêu như Việt Nam hiện nay thì việc cán cân thanh toán thặng dư do thặng dư cán cân vốn bù đắp cho thiếu hụt cán cân vãng lai thì chưa chắc đã là một dấu hiệu tốt. Nếu Việt Nam sử dụng vốn đầu tư ( vốn vay) kém hiệu quả thì nợ quốc gia sẽ nhanh chóng trở thành gánh nặng, gây áp lực phải trả nợ rất lớn đối với Ngân sách Nhà nước. Như vậy, mức thâm hụt cán cân vãng lai của Việt Nam có thể tài trợ đư,ợc nhưng chính phủ cũng nên có các biện pháp tích cực để cải thiện cán cân vãng lai nhàm đảm bảo cân đối bên ngoài một cách vững chắc. Nhiệm vụ chính của các chính sách kinh tế Việt Nam hiện nay là phải đảm bảo thiết lập được cả cân đối bên trong và cân đối bên ngoài. Định hướng điều chỉnh cán cân thanh toán của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay:

–    Tăng cường hơn nữa thu hút vồn đầu tư nước ngoài bằng cách nâng cao hiệu quả sư dụng vốn nhằm cải thiện cán cân thanh toán, tăng cường dự trữ ngoại tệ và phục vụ cho phát triển kinh tế.

–    Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam không thể đảm bảo cân bằng cán cân vãng lai và phải chấp nhận sự thiếu hụt cán cân vãng lai nhưng vấn đề là phải duy trì được khả năng chịu đựng thâm hụt của cán cân vãng lai. Tức là phải duy trì khả năng thanh toán của quốc gia. Một yêu cầu đặt ra đối với Việt Nam là phải tạo ra thặng dư cán cân vãng lai trong tương lai (không bao gồm các khoản trả lãi) đủ để hoàn trả các khoản nợ hiện tại. Nhưng sự đảo ngược trong các chính sách kinh tế (như một sự thắt chặt đột ngột) kèm theo một sự khó khăn vĩ mô như giảm mạnh các hoạt động kinh tế và tiêu dùng thì sự thiếu hụt cán cân vãng lai của Việt Nam trong hiện tại mới được coi là có khả năng chịu đựng.

Như vậy trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam cần phải hạn chế mức độ thiếu hụt cán cân vãng lai nhưng không để ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế và việc làm. Đồng thời cố gắng duy trì và nâng cao khả năng chịu đặng thiếu hụt cán cân vãng lai để không xảy ra tình trạng mất khả năng thanh toán bằng cách cải thiện các chỉ số kinh tế vĩ mô trên.

3.2 Những biện pháp nhằm điều chỉnh cán cân thanh toán Quốc tế của Việt Nam

3.2.1 Những biện pháp khuyến khích xuất khẩu

Chính sách khuyến khích xuất khẩu nhằm mục đích chuyển dịch chi tiêu nước ngoài vào các sản phẩm nội địa. Các biện pháp khuyến khích xuất khẩu bao gồm: mở rộng thị trường xuất khẩu, giảm và bỏ thuế xuất khẩu, xóa bỏ hạn ngạch xuất khẩu, cho phép mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động xuất khẩu… Tác dụng của các biện  pháp này là làm tăng khối lượng xuất khẩu, làm giảm thâm hụt cán cân thương mại và đồng thời còn làm tăng khả năng chịu đựng của cán cân vãng lai. Nó cho pháp cán cân vãng lai thiếu hụt lớn mà không dẫn đến một cuộc khủng hoảng bên ngoài nào. Đặc biệt trong điều kiện khủng hoảng kinh tế hiện nay, khuyến khích xuất khẩu lại càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.

Đẩy mạnh xuất khẩu là cách tốt nhất để Việt Nam có thể cải thiện được cán cân thương mại, đẩy lùi được tình trạng nhập siêu và có nguồn vốn để trả nợ nước ngoài. Hơn nữa vẫn đảm bảo được mục tiêu cân đối bên trong như tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và giải quyết việc làm.Trong những năm tiếp theo, Việt Nam cần phải đảm bảo tốc độ tăng xuất khẩu lớn hơn tốc độ tăng nhập khẩu để có thặng dư cán cân vãng lai trong tương lai thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.Chính vì vậy, Chính phủ cần quan tâm đến các biện pháp nhằm khuyến khích xuất khẩu.

Trong thực tế,hoạt động nhập khẩu của Việt Nam đã phải đối mặt với một số trở ngại.Trở ngại lớn nhất đối với xuất khẩu là các chính sách thuế nhập khẩu,hạn ngạch nhập khẩu..làm mất đi các lợi thế xuất khẩu của Việt Nam. Do hệ thống thuế và hệ thống quản lý thương mại là nhằm sản xuất thay thế hang nhập khẩu và sản xuất các loại hàng hóa,dịch vụ thương mại dẫn đến việc bảo hộ cho những ngành không có hiệu quả. Còn những ngành có lợi thế và khả năng xuất khẩu thì không được đầu tư các nguồn lực thích đáng.Hơn nữa,khi vực kinh tế tư nhân có nhiều tiềm năng xuất khẩu thì không được đầu tư các nguồn lực thích đáng. Hơn nữa,khu vực kinh tế có nhiều tiềm năng xuất khẩu thì chưa được chú ý phát triển. Thêm vào đó, thị trường xuất khẩu của Việt Nam trên thế giới đang bị cạnh tranh gay gắt mà sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam thì yếu, thì trường thương mại dịch vụ chưa đáp ứng được yêu cầu của xuất khẩu,tình trạng gian lận trong buôn bán vẫn còn xảy ra. Trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của của Việt Nam thì tỷ trọng hàng thô và sơ chế còn cao, hàng gia công chiếm tỷ trọng lớn.. khiến cho giá trị xuất khẩu chưa cao và không có sức cạnh tranh.Mặt khác,các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam còn nhiều hạn chế về kỹ thuật kinh doanh, chưa am hiểu đầy đủ về luật pháp và thông lệ quốc tế,chưa có độ nhanh nhạy nắm bắt thông tin thị trường nên dẫn đến việc bỏ lỡ những cơ hội kinh doanh có lợi,phải chịu những thiệt hại không đáng có trong hoạt động sản xuất..Vậy nên,Chính phủ cần có những biện pháp vừa giải quyết được những khó khăn trở ngại trong hoạt động xuất khẩu lại vừa đẩy nhanh tốc độ tăng xuất khẩu nhằm cải thiện được tình trạng thâm hụt thương mại hiện nay.

Một số biện pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh xuất khẩu trong thời gian tới:

– Tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế cùng phát triển,cải tiến chế độ phân phối,chế độ xuất nhập khẩu,tạo ra một sự phân phối nhịp nhàng,chặt chẽ giữa các doanh nghiệp cùng làm nhiệm vụ kinh doanh xuất nhập khẩu với cùng một ngành hàng,không phân biệt đó là doanh nghiệp nhà nước hay tư nhân nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để nâng cao vị thế và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Bên cạnh đó,trong tiến trình hội nhập,Việt Nam cần phấn đấu thực hiện những mục tiêu như: đẩy mạnh hợp tác kinh tế và kỹ thuật trên cơ sở tự nguyện cùng có lợi với tất cả quốc gia trên mọi lĩnh vực,thúc đẩy tự do hóa thương mại bằng các biện pháp giảm bớt thuế,dần tiến tới phi thuế;hủy bỏ việc cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu; tăng năng suất lao động,giảm bớt chi phí sản xuất hàng hóa để tăng sức mạnh về giá;đơn giản hóa thủ tục xuất nhập khẩu,thủ tục đầu tư,thủ tục hải quan,ngoại hối,ngân hàng..

– Tăng cường đầu tư nâng cao năng lực sản xuất và sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu.Tập trung các luồng vốn đầu tư nước ngoài vào sản xuất các mặt hàng phục vụ cho xuất khẩu.Đặc biệt chú trọng những ngành hàng có khả năng tăng trưởng ổn định ,sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu trong nước,đặt yêu cầu năng cao tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa lên hàng đầu,gắn sản xuất với yêu cầu của thị trường về chất lượng và mẫu mã sản phẩm…Đồng thời chuyển dịch mạnh cơ cấu đầu tư theo hướng tăng đầu tư Nhà nước để phát triển các ngành dịch vụ và một số ngành sản xuất với công nghệ cao nhằm đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ cho phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế dịch vụ và kinh tế tri thức.

– Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu,phát triển và đa dạng hóa với những mặt hàng chủ lực,gắn yêu cầu của thị trường đối với tường loại sản phẩm chính.Về đổi mới cơ cấu hàng xuất, Việt Nam cần phải chuyển nhanh và mạnh sang phần lớn hàng chế biến,giảm mức tối đa xuất hàng nguyên liệu và hàng sơ chế.

– Chính phủ cần quan tâm đến việc phát triển các doanh nghiệp tư nhân có tiềm năng,nhất là các doanh nghiệp trong các ngành chế tạo có định hướng xuất khẩu cao.Hỗ trợ nhiều hơn cho các tổ chức ,doanh nghiệp và cá nhân để phát triển các mặt hàng mới và thị trường mới.

– Việt Nam cần mở rộng thị trường xuất khẩu.Thực hiện phương châm đa dạng hóa,đa phương hóa thị trường và đối tác,hạn chế việc xuất khẩu một mặt hàng bị phụ thuộc vào một số thị trường,chú trọng các thị trường có sức mua lớn như : Mỹ,EU,Nhật Bản,Trung Quốc,Đông Nam Á..đồng thời tìm cách thâm nhập và gia tăng sự hiện diện của hàng hóa Việt Nam ở các thị trường châu Phi,Mỹ La tinh;tăng cường các hình thức buôn bán hàng đổi hàng…

– Chính phủ cũng nên tăng cường rà soát và xác định cụ thể những nguyên nhân làm chậm trễ hoặc cản trở việc thực hiện các chính sách hỗ trợ và khuyến khích xuất khẩu để xử lý kịp thời.Đồng thời thực hiện bổ sung,sửa đổi các cơ chế,chính sách,quy định chưa hợp lý;tiếp tục cải cách hành chính tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu.

3.2.2 Những biện pháp nhằm điều tiết nhập khẩu

Chính sách hạn chế nhập khẩu nhằm mục đích cố gắng dịch chuyển chi tiêu nội địa từ nước ngoài và hàng hóa trong nước. Các biện pháp hạn chế nhập khẩu bao gồm: thuế nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, yêu cầu bắt buộc kết hối ngoại tệ, cấm nhập khẩu, yêu cầu cấp giấy phép nhập khẩu… Tác dụng của biện pháp này là làm giảm số lượng hay giá trị nhập khẩu trong một khoảng thoài gian nhất định. Do đó, ban đầu nó có tác động trược tiếp cải thiện cán cân thương mại nói riêng và cán cân vãng lai nói chung. Tuy nhiên, các biện pháp này chỉ có tác dụng làm giảm thiếu hụt cán cân vãng lai lúc ban đầu. Nhưng sau đó, do giảm suất khẩu, người tiêu dùng trong nước sẽ quay sang mua hàng hóa sản xuất trong nước làm tăng tổng cầu đối với nền kinh tế dẫn đến sản lượng và thu nhập quốc dân tăng lên. Thư nhập quốc dân sẽ làm cho nhập khẩu tăng và cuối cùng làm cho sự cải thiện cán cân vãng lai ban đầu giảm đi.

Song trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay, do luồng vốn đầu tư vào trong nước ngày càng tăng mạnh kèm thao nhu cầu nhập khẩu lớn để tăng trưởng kinh tế nên Chính phủ đã phải thực hiện một số nới lỏng trong chính sách hạn chế nhập khẩu. Thêm nữa, Việt Nam đang tăng cường chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nên việc sử dụng các hạn chế thương mại sẽ dần dần được loại bỏ. Như vậy, trong tương lai, việc sử dụng các biện pháp hạn chế nhập khẩu sẽ rất khó thực hiện và có thể không thể thực hiện nữa.

Để vừa đảm bảo các mục tiêu kinh tế, vừa giảm bớt được tình trạng nhập siêu trong giai đoạn hiện nay,Việt Nam cần thực hiện các việc sau:

  • Ưu tiên nhập khẩu vật tư, thiết bị và công nghệ tiên tiến phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
  • Khuyến khích gia tăng sử dụng vật tư, thiết bị trong nước đã sản xuất được để tiết kiệm ngoại tệ và pháy triển hàng hóa sản xuất trong nước.
  • Thúc đẩy phát triển sản xuất nguyên liệu thay thế nhập khẩu như bông, nguyên liệu thuốc lá, ngô, đậu tương, đa nguyên liêu…và áp dụng các công cụ thuế mới nhằm giảm kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng này
  • Hạn chế tối đa việc nhập khẩu hàng tiêu dùng và kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu ô tô và linh kiện xe hai bánh gắn máy.
  • Thực hiện chính sách giảm chi ngoại tệ nhập khẩu đối với một số ngành dịch vụ có nhập khẩu các loại trang thiết bị chuyên dụng, thiết bị và vật liệu rẻ tiền nhanh hỏng mà tập trung tạo điều kiện sản xuất để thay thế hàng nhập khẩu…

Nói chung, những biện pháp hạn chế nhập khẩu chỉ là tạm thời, hiệu quả không cao và có thể ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. trong tình thế hiện nay, để giảm được thâm hụt thương mại, Việt Nam có thể tập trung vào các biện pháp nhằm đẩy mạnh tốc độ xuất khẩu thay vì việc tập trung để giảm nhập khẩu thay vì việc tập trung để giảm nhập khẩu như trước đây.

3.2.3 Biện pháp thu hút chuyển tiền nước ngoài

Do quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng,thị trường trong nước và thị trường ngoài nước được mở rộng và gắn kết với nhau nên lượng người Việt Nam sinh sống tại nước ngoài và lao động xuất khẩu ngày càng tăng lên. Và thực tế cho thấy,số tiền do những người Việt Nam ở nước ngoài gửi về nước luôn là nguồn tài trợ quan trọng cho thâm hụt cán cân vãng lai. Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang diễn ra, nguồn kiều hối gửi về Việt Nam đã bị giảm sút do phần còn lại của thế giới cũng lâm vào tình trạng khó khăn. Để có thể khai thác triệt để nguồn ngoại tệ này, Chính phủ cần có những biện pháp nhằm khắc phục một số vướng mắc hiện tại. Các biện pháp có thể áp dụng như thiết lập thêm mấy kênh chuyển tiền mới  giúp cho kiều bào an tâm chuyển tiền,nâng cao chất lượng dịch vụ chuyển tiền,đơn giản hóa các thủ tục có liên quan tới hệ thống ngân hàng,cải thiện môi trường đầu tư,khuyến khích kiều bào tăng cường đầu tư vào thị trường trong nước,tiếp tục thực hiện chính sách thu hút kiều hối thông thoáng…

Các biện pháp kiểm soát trực tiếp nêu trên đếu có tác dụng làm giảm thiếu hụt cán cân thương mại ,tăng khả năng chịu đựng của cán cân vãng lai nên Việt Nam cần phải chú trọng tới những biện pháp này. Nhất là trong tình hình hiện nay thì việc đẩy mạnh xuất khẩu và thu hút tối đa luồng kiều hối là hết sức quan trọng. Nó không những cải thiện cán cân vãng lai trong hiện tại mà còn đảm bảo thặng dư cán cân vãng lai trong tương lai giúp thanh toán những khoản nợ nước ngoài,đảm bảo ổn định nền kinh tế.

3.2.4 Những biện pháp thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nước ngoài

Cũng như các nước đang phát triển khác, Việt Nam đứng trước hai vấn đề quan trọng có liên quan đến vốn đầu tư để đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững:

  • Tỷ lệ huy động vốn trong nước thông qua kênh tiết kiệm và các khoản thu của Nhà nước không đáp ứng đủ nhu cầu vốn đầu tư.
  • Tình trạng nhập siêu không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu công nghiệp hóa đất nước dẫn đến thâm hụt cán cân vãng lai và sự thiếu hụt ngoại tệ trong một thời gian dài.

Cả 2 vấn đề này có thể giải quyết bằng cách thu hút vốn ngoài nước, trong đó có FDI và ODA. Cho nên để tài trợ cho thâm hụt cán cân vãng lai, cải thiện cán cân thanh toán, Chính phủ nên thu hút các luồng vốn này. Tuy việc thu hút các luồng vốn đầu tư nước ngoài vào sẽ có tác dụng làm tăng sản lượng, tạo việc làm và tài trợ cho thiếu hụt cán cân vãng lai nhưng cũng sẽ làm tăng thiếu hụt cán cân vãng lai do tăng nhập khẩu và tăng các khoản trả lợi nhuận, lãi vay cho nước ngoài.Do vậy, để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, tăng xuất khẩu giải quyết việc làm, Việt Nam phải chấp nhận thâm hụt cán cân vãng lai trong giới hạn khả năng chịu đựng để không dẫn đến cuộc khủng hoảng bên ngoài.

3.2.4.1   Thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI)

Trong các luồng vốn nước ngoài vào,đầu tư nước ngoài vào,đầu tư trực tiếp được coi là luồng vốn không tạo ra dư nợ nên Chính phủ cần tập trung khai thác luồng vốn này.Để thu hút được nhiều vốn FDI, Chính phủ có thể thực hiện có biện pháp sau:

  • Tìm kiếm thị trường và đối tác mới: trong khi vẫn coi trọng các thị trường và đối tác hiện nay, mà chủ yếu là Châu Á và các doanh nghiệp vừa,cần mở rộng việc thu hút FDI từ thị trường mới nhất là Mỹ – một nước có tiềm năng lớn và có quan hệ thương mại gia tăng mạnh mẽ với nước ta trong những năm qua.
  • Nâng cao vị thế của Việt Nam trên thị trường thế giới: trên cơ sở thường xuyên quan tâm đến việc xếp hạng của các tổ chức quốc tế về năng lực cạnh tranh trong đầu tư của từng nước, cũng như sự đánh giá của các nhà đầu tư nước ngoài đối với nước ta để sửa đổi,bổ sung những nhân tố có liên quan làm cho vị thế nước ta ngày càng cao hơn trong bảng xếp hạng của thế giới.
  • Tạo lập môi trường đầu tư tốt nhất: đảm bảo tính minh bạch và ổn định của luật pháp để các nhà đầu tư có thế tính được xu thế phát triển của dự án đầu tư.Cải cách cơ bản thủ tục hành chính theo nguyên tắc hoạt động đầu tư thuộc quyền của các doanh nghiệp.
  • Nâng cao chất lượng quy hoạch tổng thể thu hút vốn FDI phù hợp và gắn liền với quy hoạch ngành, lãnh thổ, lĩnh vực ưu tiên, mặt hàng chủ lực, khả năng thu hút lao động cao… từ đó lựa chọn dự án khả thi, dự án ưu tiên đầu tư từ nguồn vốn nước ngoài.
  • Tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án đã được cấp phép triển khai nhanh hoạt động xử lý linh hoạt chuyển đôi các hình thức đầu tư. Ngoài các dự án không cấp phép đầu tư do yêu cầu an ninh quốc gia, cần mở rộng danh mục các dự án cho phép nhà đầu tư nước ngoài được lựa chọn các hình thức đầu tư xuất phát từ hiệu quả kinh doanh.
  • Đáp ứng đủ nguồn vốn đối ứng: Khả năng tiếp cận FDI của nền kinh tế nói chung và của từng doanh nghiệp nói riêng là nhân tố quyết định đến hiệu quả đầu tư. FDI chỉ thực sự phát huy hiệu quả khi Việt Nam có khả năng tiếp năng tiếp nhận vốn và ngược lại sẽ bị phụ thuộc vào nước ngoài. Để tiếp nhận hiệu quả vốn FDI đòi hỏi phải có một tỉ lệ vốn đối ứng hợp lý.

3.2.4.2  Quản lý, sử dụng vốn viện trợ phát triển chính thức(ODA)

So với FDI, Việt Nam sẽ tiếp nhận nguồn vốn ODA sớm hơn. Nhưng thực chất nguồn vốn ODA là nguồn vốn ưu đãi.vì chỉ có khoảng 10-15%  là viện trợ không hoàn lại. Vì vậy, việc quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn này là hết sức cần thiết.

Các biện pháp cụ thể là:

  • Sức hấp dẫn của ODA nằm ở chỗ khâu lập hồ sơ nhanh chóng, sát với nhu cầu thực tế, các chủ dự án có năng lực cao. Vì vậy, chính phủ Việt Nam cần giải quyết các vấn đề này để thu hút thêm nhiều ODA phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Công tác vận động vốn ODA cần được đổi mới cơ bản về nội dung và phương pháp thực hiện, chú trọng khâu lập dự án nghiên cứu khả thi bảo đảm chất lượng trước khi đàm phán. Trong quá trình vận động tổ chức vốn cần xuất phát từ lợi ích tổng thể quốc gia, hiệu quả công việc trên cơ sở nâng cao tính chủ động của phía Việt Nam với bên nước ngoài, cần mạnh dạn chối bỏ các nguồn vốn không đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
  • Thực hiện nghiêm chỉnh các nghi quyết của Đảng và Chính phủ đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, bao gồm cả những côngty lớn trong hầu hết các ngành kinh tế chủ chốt. Một khi chính những công ty nhà nước đã thực hiện đa sở hữu hóa thì đây chính là một động lực để thúc đẩy tiến độ giải ngân vốn ODA.
  • Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn quan trọng này, bao gồm cả yêu cầu về giải ngân, Chính phủ cần đổi mới công tác tổ chức điều hành các dự án công trình quan trọng quốc gia có sử dụng nguồn vốn ODA. Đối với những công trình, hạng mục công trình quan trọng nên tổ chức đấu thầu chọn chủ dự án, công trình, mà tốt nhất là doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hóa hay công ty cổ phần có vốn góp của nhà nước. Vốn đối ứng để thực hiện dự án công trình, ngoài ngân sách nhà nước, cần huy động thêm từ xã hội thông qua phát hành cổ phiếu và trái phiếu công trình.
  • Nâng cao nhận thức và thống nhất quan điểm về vốn ODA. Nếu coi là nguồn viện trợ thuần túy thì dẫn đến sử dụng kém hiệu quả, lãng phí, không tră được nợ và cuối cùng bị lệ thuộc vào bên ngoài. Viện trợ không hoàn lại cần đựoc quản lý như đối với nguồn thu ngân sách nhà nước (NSNN) dành cho đầu tư phát triển, phần vay ưu đãi được hạch toán bù đắp bội chi ngân sách nhà nước, kiên quyết không vay cho chi thường xuyên.
  • Để cải thiện tình hình giải ngân và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA, chính phủ cũng cần tiếp tục cải thiện cơ sở pháp lý nhằm tạo môi trường rõ ràng hơn và thuận lợi hơn cho quản lý và sử dụng ODA.

3.2.5 Tăng tiết kiệm

Như phần trên đã phân tích, chúng ta biết rằng thiếu hụt cán cân vãng lai bằng lỗ hổng tiết kiệm và đầu tư của 1 quốc gia. Đối với Việt Nam thì lỗ hổng này chủ yếu xuất phát từ khu vực tư nhân. Chính vì vậy, để giảm thâm hụt cán cân vãng lai đòi hỏi chính phủ phải có các biện pháp nhằm tăng cường tiết kiệm quốc gia, đặc biệt là tiết kiệm tư nhân. Mặt khác, nếu chính phủ thu hút được nguồn vốn này để phục vụ cho đầu tư trong nước thì sẽ giảm đựoc vay vốn nước ngoài. Giảm vay vốn đầu tư nước ngoài sẽ giảm được nhập khẩu, do đó giảm được thâm hụt thương mại và giảm bớt các khoản nợ nước ngoài.

Hiện tại, Việt Nam chủ yếu thu hút các nguồn tiết kiệm tư nhân thông qua hệ thống ngân hàng dưới dạng tiền gửi tiết kiệm. Song lượng tiền gửi vào chưa nhiều và phần lớn các luồn tiền gửi vào ngân hàng là tiền gửi ngắn hạn. Kết quả là trong thực tế, Việt Nam là thiếu vốn trung và dài hạn đầu tư cho phát triển kinh tế. Chính vì vậy, ngân hàng cần tích cực thu hút các luồng vốn trung và dài hạn bằng cách khuyến khích phát triển thị trường trái phiếu.

Để đạt được ti lệ tích lũy cao hơn, Chính phủ cần phải cải thiện môi trường tổng thể sao cho thuận lợi hơn, cải thiện khuôn khổ các biện pháp khuyến khích và cần có 1 chiến lược phát triển dựa trên xuất khẩu để tăng mức thu nhập. Ngoài ra, nâng cao vai trò quan trọng ccủa nhà nước trong việc duy trì môi trường với lãi suất thực dương; đảm bảo về mặt pháp lý cho tính chất toàn vẹn lâu dài của các quyền về tài sản và sở hữu của caỉ vật chất; điều chỉnh tỷ giá hối đoái và tỷ lệ lạm phát ở mức hợp lý để cho người gửi tiền tiết kiệm có thể yên tâm về giá trị lâu dài của đồng tiền; xây dựng 1 hệ thống ngân hàng an toàn và lành mạnh để người dân yêu tâm gửi tiền; và một hệ thống thuế công bằng, hợp lý không de dọa tịch thu tiết kiệm và của cải trong tương lai.

3.2.6 Giảm chi tiêu

3.2.6.1 Sử dụng chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa.

Ngoài những biện pháp kiểm soát trực tiếp, để điều chỉnh cán cân thanh toán,các chính phủ còn có thể sử dụng các chính sách kinh tế vĩ mô như các chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa. Chính sách tiền tệ liên quan đến cung tiền của NHTƯ của một nước và chính sách tài khóa liên quan đến những thay đổi trong chi tiêu Chính phủ và thuế quan. Việc sử dụng hai chính sách này vẫn đảm bảo được cân đối bên trong và bên ngoài của nền kinh tế. Tuy nhiên, để có thể phát huy một cách có hiệu quả các chính sách kinh tế vĩ mô cho việc thiết lập cân đối bên trong và bên ngoài của nền kinh tế,yêu cầu phải có thị trường tài chính và đặc biệt phải tự do hóa về tài chính.

Theo quan điểm của Mundell ,trong điều kiện tự do hóa thương mại và tài chính với chế độ tỷ giá cố định,cân đối bên trong và bên ngoài có thể đạt được thông qua chính sách tiền tệ và tài khóa hợp lý. Như vậy là chính sách tài khóa được phân cho mục tiêu cân đối bên trong và chính sách tiền tệ được phân cho mục tiêu cân đối bên ngoài (vì chính sách tiền tệ có lợi thế tương đối trong thực hiện cân đối bên ngoài và chính sách tài khóa có lợi thế tương đối trong thực hiện cân đối bên trong). Trên cơ sở đó, Mundell đã đưa ra một số gợi ý chính sách điều chỉnh như sau:

Chính sách tiền tệ và tài khóa nhằm thiết lập cân đối bên trong và bên ngoài.

Trạng thái nền kinh tế Chính sách tiền tệ Chính sách tài khóa
Thất ngiệp và thặng dư

 

Lạm phát và thặng dư

Lạm phát và thâm hụt

Thất nghiệp và thâm hụt

Mở rộng

 

Mở rộng

Thắt chặt

Thắt chặt

Mở rộng

 

Thắt chặt

Thắt chặt

Mở rộng

NHTW điều hành chính sách tiền tệ thông qua các công cụ điều chỉnh như: nghiệp vụ thị trường mở,tỷ lệ dự trữ bắt buộc ,lãi suất triết khấu… Chính phủ điều hành chính sách tài khóa thông qua biện pháp tăng hoặc giảm chi tiêu của chính phủ và thuế.

Khi NHTW thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng tức là tăng cung tiền bằng cách mua vào các trái phiếu trên thị trường mở,dẫn đến giá trái phiếu tăng và mức lãi suất giảm; lãi suất giảm kích thích đầu tư tăng;đầu tư tăng làm tăng thu nhập quốc dân; thu nhập quốc dân tăng làm tăng nhập khẩu. Như vậy ,chính sách tiền tệ mở rộng sẽ làm cho cán cân thanh toán xấu đi.

Ngược lại, khi NHTW thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt tức là giảm cung tiền bằng cách bán ra các trái phiếu trên thị trường mở, dẫn đến giá trái phiếu giảm và mức lãi suất tăng : lãi suất tăng kìm hãm đầu tư; đầu tư giảm làm giảm thu nhập quốc dân ; thu nhập quốc dân giảm làm giảm nhập khẩu. Như vậy ,chính sách tiền tệ thắt chặt sẽ làm cho cán cân thanh toán được cải thiện.

Còn khi Chính phủ thực hiện chính sách tài khóa mở rộng tức là tăng chi tiêu của chính phủ bằng cách bán ra trái phiếu trên thị trường mở, dẫn đến tăng thu nhập thông qua thừa số chi tiêu của chính phủ. Tuy nhiên ,chính sách tài khóa mở rộng cũng không hẳn làm cho cán cân thanh toán xấu đi. Do chính phủ bán trái phiếu ra nên giá trị trái phiếu giảm và lãi suất tăng;lãi suất tăng dẫn đén giảm đầu tư;điều này phần nào làm giảm đi hiệu ứng tăng thu nhập thông qua thừa số chi tiêu của Chính phủ ;đồng thời lãi suất tăng sẽ kích thích luồng vốn chảy vào làm cho cán cân thanh toán được cải thiện. Tương tự ,khi chính phủ thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt cũng vậy,nó không hẳn làm cho cán cân thanh toán được cải thiện. Do việc khó xác định được chính xác ảnh hưởng của chính sách tài khóa lên cán cân thanh toán cho nên tùy thuộc vào từng thời kỳ cụ thể mà các nước cần có sự kết hợp hài hòa giữa các chính sách tài khóa và tiền tệ .

Đối với tình hình Việt Nam hiện nay,các chính sách tiền tệ và tài khóa cần phải đảm bảo cả mục tiêu cân đối bên trong và mục tiêu cân đối bên ngoài. Do đó,Chính phủ có thể áp dụng các chính sách cụ thể như sau:

Chính sách tiền tệ của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là mở rộng tiền tệ. Việc tăng cung tiền sẽ được thực hiện chủ yếu thông qua tăng dự trữ quốc tế (do cán cân thanh toán thặng dư) và tăng số nhân tiền bằng cách thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc .Kết hợp vói giảm lãi suất để duy trì cung tiền bằng cầu tiền. Cụ thể:

  • Tăng dự trữ quốc tế phù hợp với yêu cầu tăng nhập khẩu phục vụ phát triển kinh tế ,đồng thời có tác dụng hạn chế việc tăng giá đồng Việt Nam khi thu hút vốn nước ngoài và hạn chế được tốc độ tăng lạm phát.
  • Giảm lãi suất để hạn chế thu hút vốn ngắn hạn và tăng vốn đầu tư trong nước.
  • Giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc có ý nghĩa là giảm thuế đánh vào hệ thống ngân hàng, có tác dụng giảm lãi suất nội địa và giảm chênh lệch lãi suất cho vay. Do đó ,nó đảm bảo vừa tăng được đầu tư vừa khuyến khích được tiết kiệm trong nước.

Chính sách tài khóa mở rộng hiện nay là: Giảm thuế suất và mở rộng diện nộp thuế;tăng chi tiêu đầu tư và xã hội để xây dựng cơ sở hạ tầng,xóa đói giảm nghèo, phát triển giáo dục đồng thời hạn chế chi tiêu thường xuyên .Thiếu hụt NSNN được bù đắp bằng cách Chính phủ bán công trái và trái phiếu kho bạc .Cụ thể:

–      Mở rộng diện thu thuế là cần thiết để tăng thu ngân sách vì Việt Nam còn nhiều nguồn thu bị bỏ qua như thu thuế,phí từ thị trường đất đai,bất động sản,thu nhập cá nhân…

–      Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế,việc để thuế giá trị gia tăng,thuế suất nhập khẩu cao là không hợp lý làm triệt tiêu động lực của sản xuất ,giảm sức cạnh tranh.Việc giảm thuế này về dài hạn sẽ thu lại nguồn thu lớn nhờ sản xuất được mở rộng.

–       Để phát triển kinh tế bền vững lâu dài,cần tăng chi cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng ,giáo dục,xóa đói,y tế,môi trường… Đồng thời trong ngắn hạn đây cũng là một biện pháp làm tăng tổng cầu và giải quyết việc làm.

–     Bán công trái và trái phiếu kho bạc sẽ có tác dụng thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân làm tăng tiết kiệm tư nhân.

Mặc dù tác động cải thiện cán cân vãng lai không rõ ràng nhưng chính sách tiền tệ và tài khóa lại có tác dụng cải thiện các chỉ số kinh tế vĩ mô đảm bảo cho khả năng chịu đựng thâm hụt của cán cân vãng lai để tránh không gây ra một cuộc khủng hoảng bên ngoài như chỉ số: tỷ lệ xuất khẩu/GDP tăng ;tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư nội địa/GDP tăng ,tỷ giá đồng nội tệ giảm phù hợp với tỷ giá thực…

3.2.6.2 Biện pháp điều chỉnh tỷ giá

Thực tế cho thấy, các hệ số co giãn nhu cầu hàng xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia phụ thuộc vào cơ cấu hàng xuất khẩu của quốc gia đó. Qua phân tích, chúng ta thấy rằng cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là những mặt hàng thô, sơ chế, những mặt hàng chế biến chiếm tỷ trọng nhỏ. Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đều phụ thuộc vào nhu cầu trên thị trường thế giới và giá cả do thị trường thế giới quyết định. Do đó, Việt Nam có giảm giá các mặt hàng này cũng không thể tăng được số lượng xuất khẩu và tăng giá thì không xuất khẩu được. Còn những mặt hàng  công nghiệp xuất khẩu của Việt Nam thì chủ yếu là hàng gia công, nguyên liệu đầu vào phàn lớn phải nhập khẩu và có giá trị gia tăng thấp. Do đó nếu Việt Nam phá giá đồng nội tệ thì cũng không giảm được giá xuất khẩu đối với những mặt hàng này. Có thể nói, hệ số co giãn nhu cầu hàng xuất khẩu của Việt Nam là rất thấp và gần như không co giãn nên việc phá giá sẽ không làm tăng được doanh thu xuất khẩu của Việt Nam. Đối với hàng nhập khẩu của  Việt Nam cũng vậy, hệ số co giãn nhu cầu nhập khẩu là rất thấp, thậm chí là không co giãn ở Việt Nam. Vì hiện nay Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nên rất cần nhập khẩu các máy móc thiết bị, phụ tùng và nguyên nhiên liệu ( trong nước không sản xuất được). Đây cũng chính là những mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam. Do đó, việc phá giá đồng nội tệ cũng không thể giẩm bớt những chi phí nhập khẩu của Việt Nam.

Như vậy là việc phá giá đồng nội tệ ở Việt Nam hoàn toàn không có tác dụng cải thiện can cân thương mại cả trong ngắn hạn và dài hạn, không đẩy nhanh được tốc độ tăng trưởng kinh tế, không giải quyết được thất nghiệp. Không những thế,  phá giá đồng nội tệ còn làm cho lạm phát ở Việt Nam tăng cao. Vì vậy, khi xem xét vấn đề phá giá đồng Việt Nam cho việc thanh toán các khoản nợ nước ngoài, ảnh hưởng không tốt đến quá trình công nghiệp hóa đất nước( do hạn chế nhập khẩu)… Trong bói cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay, chính phủ không nên phá giá đồng nội tệ.

Một số biện pháp về chính sách tỷ giá trong thời gian tới mà Việt Nam cần thực hiện là:

  • Chính sách tỷ giá phải giữ vững thế cân bằng nội và cân bằng ngoại.
  • Ổn định tỷ giá trên mối tương quan cung cầu trên thị trường xuất khẩu,kích thích xuất khẩu,hạn chế nhập khẩu,cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trự ngoại tế.
  • Từng bước nâng cao uy tín VNĐ,tạo điều kiện cho VNĐ có thể trở thành đồng tiền chuyển đổi.
  • Phối hợp với chính sách ngoại hối để chống hiện tượng đô la hóa.

Ngoài ra ,Chính phủ cần hoàn thiện hơn chính sách ngoại hối để vừa tranh thủ được các nguồn vốn quốc tế vừa thúc đẩy các hoạt động thương mại,dịch vụ,du lịch,kiều hối,đầu tư,…nhưng lại phải đảm bảo được chủ quyền của đồng Việt Nam, thực hiện được mục tiêu của chính sách tiền tệ.


Tải xuống tài liệu học tập PDF miễn phí

[sociallocker id=”19555″] Tải Xuống Tại Đây [/sociallocker]

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here